Kiến nghị bổ sung quy định pháp lý về bằng kỹ sư, tránh thiệt thòi cho người học

04/03/2025 09:07
Thúy Hiền

GDVN - Theo PGS.TS Trần Thiên Phúc, việc chưa có quy định pháp lý rõ ràng về bằng kỹ sư không chỉ ảnh hưởng đến sinh viên mà còn làm giảm sức hút của ngành kỹ thuật.

Khoản 1 và khoản 6, Điều 38 Luật số 34/2018/QH14 (sau đây gọi tắt là Luật 34) sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học quy định: “Văn bằng giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và văn bằng trình độ tương đương. Chính phủ ban hành hệ thống văn bằng giáo dục đại học và quy định văn bằng, chứng chỉ đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù”.

Nghị định 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật 34 quy định, một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù, trong đó có bằng kỹ sư, cần có chương trình với khối lượng học tập từ 150 tín chỉ trở lên (đối với người đã tốt nghiệp trung học phổ thông và tương đương) hoặc từ 30 tín chỉ trở lên (với người đã tốt nghiệp trình độ đại học).

Hiện nay, luật chưa quy định rõ về trình độ tương đương của các ngành đào tạo chuyên sâu, đặc thù. Sinh viên tốt nghiệp chương trình kỹ sư dù được cấp bằng kỹ sư và có thời gian học dài hơn nhưng giá trị bằng cấp vẫn tương đương so với bậc cử nhân do thiếu khung pháp lý cụ thể. Điều này gây không ít băn khoăn cho lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học.

Quy định rõ về bằng kỹ sư sẽ giúp sinh viên theo học bớt thiệt thòi

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, mặc dù chương trình đào tạo kỹ sư có thời gian học dài hơn và yêu cầu khối lượng kiến thức chuyên sâu hơn so với bậc cử nhân nhưng do chưa được quy định rõ ràng trong hệ thống văn bằng quốc gia nên sinh viên tốt nghiệp chương trình kỹ sư vẫn chỉ được công nhận tương đương so với bậc cử nhân.

Điều này dẫn đến nhiều bất cập trong công tác tuyển dụng và chính sách đãi ngộ lao động, gây thiệt thòi cho sinh viên tốt nghiệp.

“Tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, chương trình đào tạo cử nhân có thời lượng khoảng 132 tín chỉ. Trong khi đó, chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam (PFIEV) được thành lập theo Nghị định thư 1997 ký ngày 12/11/1997 giữa hai chính phủ Pháp và Việt Nam tại nhà trường có tổng số tín chỉ cao hơn 67 tín chỉ so với chương trình cử nhân.

Về nội dung đào tạo, chương trình kỹ sư có yêu cầu chuyên sâu hơn so với cử nhân, thậm chí tiệm cận trình độ thạc sĩ. Tuy nhiên, do Luật Giáo dục đại học chưa có quy định cụ thể về giá trị của bằng kỹ sư, sinh viên tốt nghiệp kỹ sư vẫn chỉ được công nhận tương đương với bậc cử nhân. Điều này vô hình trung gây ra khó khăn trong việc tuyển dụng vào các cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt là khi xét duyệt hệ số lương hoặc yêu cầu đầu vào của các chương trình đào tạo sau đại học.

Ngoài ra, việc chưa có quy định pháp lý rõ ràng về bằng kỹ sư không chỉ ảnh hưởng đến sinh viên mà còn làm giảm sức hút của ngành kỹ thuật đối với thí sinh trong bối cảnh Việt Nam đang cần nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này”, thầy Phúc cho hay.

pgs.ts tran thien phuc.png
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc - Phó HIệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Website nhà trường)

Theo thầy Phúc, để đảm bảo sự công bằng, cần bổ sung quy định vào Luật Giáo dục đại học, công nhận bằng kỹ sư là một văn bằng chuyên sâu, có giá trị tương đương với các ngành đào tạo đặc thù khác.

Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ phù hợp, bao gồm chính sách lương và thăng tiến xứng đáng cho kỹ sư sau khi tốt nghiệp. Điều này không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của sinh viên mà còn góp phần nâng cao chất lượng nhân lực kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Mặt khác, thầy Phúc nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là cần chính danh cấp độ đào tạo kỹ sư và xác định rõ đơn vị chịu trách nhiệm đào tạo.

“Trước đây, có thể chúng ta muốn áp dụng mô hình giáo dục quốc tế, trong đó bằng kỹ sư không chỉ là một văn bằng học thuật mà còn được xem như một loại giấy phép hành nghề, thường do các hiệp hội nghề nghiệp cấp.

Chẳng hạn, tại Pháp, sau khi hoàn thành chương trình cử nhân, người học phải tích lũy thêm kinh nghiệm thực tiễn, tham gia vào các công việc chuyên môn và đáp ứng những tiêu chí khắt khe trước khi được một hội đồng thẩm định công nhận đạt chuẩn kỹ sư, tương tự như quy trình cấp chứng chỉ hành nghề.

Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam, các hiệp hội nghề nghiệp vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác đào tạo như các trường đại học. Do đó, việc cấp bằng kỹ sư nên tiếp tục giao cho các trường đại học, với quy định chặt chẽ về nội dung và thời gian đào tạo bổ sung sau khi sinh viên hoàn thành bậc cử nhân.

Đặc biệt, giai đoạn đào tạo chuyên sâu này cần được định danh rõ ràng là một bậc học đặc thù, đảm bảo tính chuyên môn cao và phù hợp với nhu cầu thực tiễn”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc chia sẻ.

Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện nay, chương trình đào tạo kỹ sư chuyên sâu có thời lượng từ 150 tín chỉ đến 180 tín chỉ, tương đương hoặc thậm chí dài hơn so với tổng thời gian học của bậc thạc sĩ. Trong khi đó, theo quy định hiện hành, bằng kỹ sư vẫn chỉ được công nhận là trình độ đại học, không có sự khác biệt rõ ràng so với bằng cử nhân.

Thực tế này đặt ra vấn đề về sự công bằng cho sinh viên theo học chương trình kỹ sư, khi họ dành thêm thời gian và công sức để hoàn thành khối lượng kiến thức chuyên sâu nhưng chưa được hưởng lợi thế tương xứng trong tuyển dụng, lương thưởng hay cơ hội học tiếp lên trình độ cao hơn.

Do đó, cần có quy định rõ ràng về giá trị của bằng kỹ sư, đảm bảo quyền lợi cho người học và phản ánh đúng năng lực chuyên môn mà họ đã đạt được.

gs.ts chu duc trinh.png
Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. (Ảnh: Website nhà trường)

Đồng quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng cho biết, người học có bằng kỹ sư phải học nhiều hơn, chi phí học tập cao hơn, thời gian học dài hơn so với người học có bằng cử nhân. Tuy nhiên giá trị của bằng kỹ sư vẫn chưa được làm rõ trong các văn bản pháp luật hiện hành.

“Tại Nghị định số 115/2020/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, được sửa đổi, bổ sung ở Nghị định số 85/2023/NĐ-CP, hệ thống phân loại viên chức hiện nay chỉ dựa trên trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng và trung cấp mà không có sự phân biệt giữa bằng kỹ sư và bằng cử nhân.

Điều này dẫn đến thực trạng trong quá trình tuyển dụng và trả lương, các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp không có cơ sở để xác định sự khác biệt giữa người tốt nghiệp chương trình kỹ sư với người có bằng cử nhân, mặc dù thời gian đào tạo và khối lượng kiến thức chuyên sâu của hai chương trình này là khác nhau.

Vì vậy, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng kiến nghị Chính phủ và các cơ quan liên quan xem xét sửa đổi quy định để phân định rõ ràng giữa bằng cử nhân và bằng kỹ sư, cũng như các văn bằng đào tạo chuyên sâu đặc thù khác.

Việc này không chỉ đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người học mà còn giúp nâng cao giá trị của các chương trình đào tạo chuyên sâu, tạo động lực cho sinh viên theo học các ngành kỹ thuật và khoa học công nghệ, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu nêu quan điểm.

pgs.ts nguyen huu hieu.png
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng. (Ảnh: Website nhà trường)

Bên cạnh đó, theo thầy Hiếu, để giúp sinh viên theo học chương trình đào tạo kỹ sư có việc làm ngay khi ra trường, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng đã luôn chủ động, tích cực rà soát, cải tiến chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng, cập nhật mục tiêu chuẩn đầu ra phù hợp với yêu cầu thực tiễn các bên liên quan và xu hướng phát triển của khoa học công nghệ.

Đồng thời, sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình cải tiến chương trình đào tạo là bắt buộc, phù hợp với yêu cầu của các ngành nghề. Điều này giúp sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể đáp ứng ngay các yêu cầu công việc.

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, yêu cầu về chất lượng lao động ngày càng khắt khe, kéo theo nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp đối với các ngành đào tạo của Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng luôn ở mức cao. Theo thống kê những năm gần đây, tỷ lệ sinh viên có việc làm trong vòng một năm sau khi tốt nghiệp đạt trung bình 98% với mức lương khởi điểm khá hấp dẫn.

Đặc biệt, ở một số ngành trọng điểm, nhu cầu tuyển dụng từ doanh nghiệp thường xuyên vượt quá khả năng đào tạo của nhà trường, cho thấy sự khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao và sức hút mạnh mẽ của các chương trình đào tạo này.

sv bk đn.png
Sinh viên Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng sáng tạo nhiều dự án phục vụ cộng đồng thông qua việc gắn kết với doanh nghiệp. (Ảnh: Website nhà trường)

Phối hợp với doanh nghiệp còn gặp khó khăn do trở ngại về “bằng cấp học thuật”

Cũng theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu, trong quá trình hợp tác đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp, yêu cầu về giảng viên thỉnh giảng phải đáp ứng các tiêu chuẩn giảng viên theo quy định đã gây ra không ít khó khăn trong việc mời chuyên gia đến từ doanh nghiệp tham gia giảng dạy.

“Mục đích thỉnh giảng là nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo thông qua việc thu hút nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân,... có trình độ cao, kinh nghiệm tham gia giảng dạy. Điều này được thể hiện rõ trong Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và Quy định về chế độ thỉnh giảng trong các cơ sở giáo dục.

Tuy nhiên hiện nay, mặc dù các chuyên gia từ doanh nghiệp sở hữu nhiều kinh nghiệm thực tiễn và hiểu rõ yêu cầu thực tế của ngành, họ thường gặp rào cản khi tham gia giảng dạy tại các trường đại học do không đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp học thuật.

Để có thể giải quyết bài toán trên, trong những năm qua nhà trường đã xây dựng chính sách để hỗ trợ đội ngũ giảng viên thỉnh giảng nhằm nâng cao nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu quy định.

Đối với đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm thực tiễn nhưng thiếu tiêu chuẩn về bằng cấp, nhà trường tổ chức hoạt động thỉnh giảng theo chế độ báo cáo viên. Theo đó, các chuyên gia được mời để báo cáo ở trường các chuyên đề, tham gia hoạt động hướng dẫn sinh viên thực tập, thực hành cũng như làm đồ án tốt nghiệp”, thầy Hiếu cho biết.

Theo Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, mỗi năm nhà trường tổ chức khoảng 300 học phần kiến tập và thực tập tốt nghiệp cho khoảng 10.000 sinh viên. Thời gian qua, các doanh nghiệp và đơn vị đã tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện thực tập thuận lợi cho sinh viên. Tuy nhiên, quá trình phối hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp vẫn còn gặp một số trở ngại nhất định.

Trước hết, sự không đồng bộ về thời gian giữa lịch học của sinh viên và lịch làm việc của doanh nghiệp gây khó khăn trong việc sắp xếp thời gian thực tập hợp lý. Nhiều sinh viên gặp trở ngại khi phải cân đối giữa việc học trên lớp và thời gian tham gia thực tập.

Ngoài ra, việc giám sát và theo dõi chất lượng thực tập tại các doanh nghiệp chưa được chú trọng. Ở nhiều đơn vị, chưa có cơ chế gắn trách nhiệm cụ thể của người hướng dẫn đối với sinh viên thực tập, dẫn đến việc giám sát lỏng lẻo.

Cuối cùng, việc thiếu chính sách hỗ trợ cho thực tập sinh cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Một số doanh nghiệp chưa có chế độ hỗ trợ tài chính hoặc định hướng rõ ràng cho sinh viên thực tập, khiến họ thiếu động lực làm việc và không tận dụng được tối đa cơ hội trải nghiệm thực tế.

sv bk hcm.png
Các bạn học sinh, sinh viên tham gia Ngày hội Tư vấn tuyển sinh - Hướng nghiệp 2025 tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: Website nhà trường)

Còn Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc cho rằng, những khó khăn trong quá trình hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp không chỉ xuất hiện ở một trường mà là vấn đề chung của tất cả các cơ sở đào tạo, bao gồm cả Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Thực tế tại Việt Nam, những người thành đạt trong doanh nghiệp thường tập trung phát triển sự nghiệp ngay sau khi tốt nghiệp, ít theo đuổi các bậc học cao hơn. Điều này dẫn đến nghịch lý là những chuyên gia giàu kinh nghiệm thực tiễn lại không có bằng cấp phù hợp để giảng dạy chính thức trong môi trường đại học.

Trước tình hình đó, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng một mô hình kết hợp, trong đó các môn học chuyên sâu được giảng dạy đồng thời bởi cả giảng viên của trường và chuyên gia từ doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, nhà trường cũng triển khai việc đưa giảng viên tham gia trực tiếp vào các chương trình thực tế, chẳng hạn như đồng hướng dẫn sinh viên trong học kỳ doanh nghiệp hoặc các chuyến tham quan thực tế tại doanh nghiệp. Điều này giúp giảng viên cập nhật kiến thức thực tiễn, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy, đảm bảo nội dung đào tạo sát với nhu cầu thực tế của thị trường lao động.

Đồng quan điểm trên, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình cho biết, khi nhà trường mời các chuyên gia từ doanh nghiệp đến giảng dạy, tùy vào từng môn học và yêu cầu cụ thể, mục tiêu chính là cung cấp cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng thực tiễn mà doanh nghiệp yêu cầu. Để đảm bảo chất lượng, nhà trường luôn cử cán bộ, giảng viên đồng hành cùng với chuyên gia đến từ doanh nghiệp trong quá trình giảng dạy. Việc này giúp hai bên trao đổi, kết hợp những thế mạnh của mình nhằm đảm bảo chương trình đào tạo đáp ứng được chuẩn đầu ra. Vì vậy, đây không phải là một bài toán quá khó để thực hiện.

Theo quy định, giảng viên giảng dạy bậc đại học cần có trình độ từ thạc sĩ trở lên và tại Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, yêu cầu tối thiểu đối với giảng viên cơ hữu là có trình độ tiến sĩ. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả giảng dạy, nhà trường đã triển khai mô hình trợ giảng, trong đó, các cử nhân mới tốt nghiệp hoặc sinh viên năm cuối hoàn toàn có thể hỗ trợ sinh viên trong việc làm bài tập, đồ án tốt nghiệp và hướng dẫn thực hành. Đây cũng là một mô hình phổ biến trên thế giới, khi sinh viên khóa trên đóng vai trò hỗ trợ khóa dưới, giúp tạo môi trường học tập tương tác, nâng cao kỹ năng chuyên môn và tinh thần hợp tác trong giảng dạy.

Theo thầy Trình, việc mời chuyên gia doanh nghiệp trực tiếp giảng dạy giúp sinh viên tiếp cận kiến thức thực tế sát với nhu cầu ngành nghề. Tuy nhiên, số lượng môn học có sự tham gia trực tiếp của doanh nghiệp trong chương trình đào tạo không quá nhiều mà chủ yếu tập trung vào những nội dung thực tiễn, có tính ứng dụng cao. Vì vậy, vấn đề bằng cấp cũng cần được xem xét linh hoạt, miễn là đảm bảo chất lượng đào tạo và phù hợp với định hướng phát triển của chương trình.

Thúy Hiền