Sau quy hoạch, trường sư phạm cần được chú trọng đầu tư để hoạt động hiệu quả

15/03/2025 06:29
ĐÀO HIỀN

GDVN - Khi thực hiện quy hoạch mạng lưới trường sư phạm, cần có các chính sách đầu tư và hỗ trợ để đảm bảo sự phát triển bền vững của các cơ sở đào tạo giáo viên.

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050. Đối với mạng lưới cơ sở giáo dục đại học đào tạo giáo viên, Quy hoạch định hướng phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học đào tạo giáo viên đạt quy mô từ 180 đến 200 nghìn người học, khoảng 85% ở trình độ đại học và 15% ở trình độ cao đẳng.

Hiện nước ta có 103 cơ sở đào tạo giáo viên, bao gồm 15 trường đại học sư phạm (6 trường đại học sư phạm, 6 trường đại học sư phạm kỹ thuật, 2 trường sư phạm thể dục thể thao, 1 trường sư phạm nghệ thuật), 50 trường đại học đa ngành và trường đại học đặc thù có đào tạo giáo viên, 20 trường cao đẳng sư phạm và 18 trường cao đẳng đa ngành có đào tạo giáo viên.

Theo Quy hoạch thì đến năm 2030, mạng lưới đại học đào tạo giáo viên dự kiến có từ 48 đến 50 cơ sở với quy mô từ 180 đến 200 nghìn người học. Như vậy có thể thấy số lượng trường đào tạo giáo viên sẽ giảm hơn 1/2 so với hiện nay.

Ngoài ra, Quy hoạch cũng nhấn mạnh các cơ sở giáo dục đại học chủ chốt đào tạo giáo viên bao gồm 02 trường đại học sư phạm trọng điểm và 12 cơ sở giáo dục đại học khác trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đại học quốc gia và đại học vùng, giữ vai trò nòng cốt trong mạng lưới như sau:

ad-4nxewtgyghkanmz5dpwxl7qjtic9e9ubz1nctdz0ysn8dwmle0-j4gm-sy3uzi4hihquiws-h36ud0jvlcwpa22c08q0-yp3juojw6t-jkfhb4vef2byrdxgzbmvehdtgo4fnzyt-1169.png

Quy hoạch nhằm tạo thêm “sức bật” để ngành sư phạm phát triển

Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên là một trong những cơ sở giáo dục đại học chủ chốt đào tạo giáo viên theo Quy hoạch, với quy mô đào tạo dự kiến khoảng 9.000 - 10.000 sinh viên. Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Hà Trần Phương - Chủ tịch Hội đồng trường cho biết: Trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với hệ thống giáo dục quốc dân khi sắp xếp, quy hoạch các đơn vị đào tạo gắn với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng.

Trên thực tế, việc sắp xếp như vậy sẽ gia tăng hiệu quả trong công tác đào tạo cũng như đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và nhu cầu của người học. Đồng thời, tạo định hướng và thúc đẩy giáo dục đại học phát triển đồng bộ, hiện đại, từng bước tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới.

Đối với các cơ sở giáo dục đào tạo sư phạm nói riêng, quy hoạch đã có sự tác động mạnh mẽ khi tái định hình và định hướng cho các đơn vị xây dựng chiến phát triển riêng. Từ đó dễ dàng thúc đẩy các hoạt động quản trị, quản lý, chuyên môn của từng đơn vị.

Trước đó, có thể thấy số lượng các cơ sở đào tạo sư phạm tại Việt Nam khá lớn, phân bổ dàn trải, đều khắp các vùng, miền, địa phương nhưng thiếu sự kết nối giữa các đơn vị nên chưa tạo thành mạng lưới thống nhất. Các đơn vị cũng chưa thực hiện tốt nhiệm vụ phối hợp hiệu quả hoạt động đào tạo và bồi dưỡng.

Trên thực tế, số lượng giảng viên có trình độ cao cũng phân bổ không đồng đều ở các cơ sở đào tạo. Hầu hết đội ngũ tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư thường tập trung tại các trường sư phạm ở thành phố lớn, dẫn đến tình trạng thiếu giáo viên đầu ngành ở các trường sư phạm địa phương.

Do đó, khi các trường đào tạo sư phạm được quy hoạch thuộc một thể thống nhất sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho công tác đào tạo giáo viên ở mỗi trường. Đặc biệt là công tác tuyển sinh và tuyển dụng giáo viên cho các địa phương.

thầy Phương.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Hà Trần Phương - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: website nhà trường

Đồng tình với quan điểm trên, Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Tiến - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh cũng cho rằng quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 là chủ trương đúng đắn và cần thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số.

Theo thầy Tiến, kết quả quy hoạch được xây dựng dựa trên quá trình rà soát, đánh giá năng lực của từng đơn vị đào tạo, cũng như nhu cầu thực tế ở từng khu vực, địa phương. Vậy nên, việc quy hoạch các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm sẽ giúp thực hiện định hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các đại học, trường đại học lớn trong các nghị quyết phát triển vùng của quốc gia.

Đối với lĩnh vực sư phạm, đây có thể coi là chính sách tạo sức bật cho các trường thêm nhiều cơ hội đột phá và phát triển. Trước đó, Nghị định 116/2020/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm đã tạo nhiều thuận lợi cho các trường đào tạo giáo viên trong công tác thu hút, tuyển sinh được nhiều thí sinh giỏi. Kết quả nhận thấy rõ ràng nhất chính là số lượng học sinh lựa chọn theo đuổi ngành sư phạm ngày một đông hơn, chất lượng đầu vào cũng ngày càng cải thiện và được nâng lên.

Khi đã có chính sách để thu hút nguồn đầu vào đối với lĩnh vực sư phạm thì cần phải quy hoạch, sắp xếp các đơn vị để tập trung đầu tư cơ sở vật chất, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đào tạo.

Mặt khác, việc xác định trường trọng điểm, trường chủ chốt đào tạo sư phạm sẽ tạo sự kết nối, phối hợp giữa các trường, cũng như nâng cao trách nhiệm đào tạo của từng đơn vị. Qua đó thiết lập được hệ thống giáo dục đại học mở, công bằng, bình đẳng, chất lượng và hiệu quả.

biotec3-3725.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Tiến - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh. Ảnh: webiste nhà trường

Kiến nghị các chính sách đầu tư sau khi quy hoạch

Theo đánh giá của Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, quy hoạch mạng lưới trường sư phạm cơ bản đã đi theo hướng tinh gọn và đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên để hiệu quả thì cần có thêm các cơ chế, cũng như chính sách đầu tư cho các trường đào tạo sư phạm sau khi quy hoạch.

Chẳng hạn như sau khi xác định được các trường trọng điểm, các trường chủ chốt đào tạo giáo viên thì Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phân phối chỉ tiêu cho các trường sao cho phù hợp với quy mô, vị thế và trách nhiệm của từng đơn vị.

Khi quy mô đào tạo tăng thì cần chú trọng nâng cao chất lượng cơ sở đào tạo. Theo đó, cần phải có quỹ đất, không gian phát triển cho các trường sư phạm như xây dựng các trường thực hành để người học có cơ hội rèn luyện, phát triển các kỹ năng ngay từ khi còn ngồi trên trên ghế nhà trường. Chỉ khi đó mới có thể nâng cao năng lực, chuyên môn đội ngũ giáo viên khi ra trường.

Trên thực tế, một cơ sở đào tạo sư phạm chất lượng cần có quỹ đất đủ rộng để xây dựng các khu vực học tập, phòng thí nghiệm, phòng học chuyên ngành và các khu vực thực hành. Không gian này cũng cần được thiết kế để khuyến khích sự sáng tạo, trao đổi và học hỏi giữa sinh viên và giảng viên.

Các trường sư phạm cần có không gian cho các phòng nghiên cứu, nơi sinh viên có thể thực hiện các dự án nghiên cứu, phát triển phương pháp giảng dạy mới, hay thực hiện các bài thí nghiệm giáo dục. Những khu vực này sẽ giúp sinh viên sư phạm phát triển khả năng tư duy sáng tạo và kỹ năng nghiên cứu giáo dục.

“Việc tạo ra quỹ đất và không gian phát triển cho các trường sư phạm, đặc biệt là xây dựng các trường thực hành là một bước đi quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là cơ hội để sinh viên có thể rèn luyện kỹ năng giảng dạy thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, giúp họ phát triển năng lực chuyên môn vững vàng và chuẩn bị tốt cho nghề giáo. Khi đó, đội ngũ giáo viên tốt nghiệp sẽ có nền tảng vững chắc, sẵn sàng đối mặt với những thách thức trong công việc giảng dạy, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục”, thầy Nam nêu quan điểm.

TN1.jpg
Cần đầu tư phòng nghiên cứu, thực hành tại các trường sư phạm. Ảnh minh họa: Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên

Đối với các đơn vị đào tạo, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục cho rằng các trường cần nâng cao trách nhiệm, đảm bảo chất lượng đầu vào, tuyển chọn được những người phù hợp với nghề giáo. Trong quá trình đào tạo bên cạnh việc đào tạo chuyên môn thì cũng cần bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức làm nghề. Trong bối cảnh chuyển đổi số cần đẩy mạnh việc cập nhật, trang bị năng lực số để giáo viên có thể bắt kịp các xu thế của xã hội.

Hiện nay, khi thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018, học sinh được làm quen với các môn tích hợp. Vì là môn học mới nên số lượng giáo viên có đúng chuyên môn môn học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, gây ra nhiều bất cập, khó khăn cho các cơ sở giáo dục.

Do đó, thầy Nam cho hay nếu muốn đổi mới về phương pháp giáo dục, theo chủ trương tích hợp thì cần ưu tiên đầu tư và phân phối kinh phí, chỉ tiêu tuyển sinh cho các ngành này. Các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các trường sư phạm cần được đầu tư để mở rộng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho giáo viên về các môn tích hợp. Các chương trình đào tạo này không chỉ tập trung vào kiến thức chuyên môn mà còn phải trang bị cho giáo viên phương pháp giảng dạy phù hợp với mô hình tích hợp, giúp họ có khả năng kết hợp các môn học khác nhau trong quá trình giảng dạy.

Các trường sư phạm cần được hỗ trợ tài chính để mở rộng và cải thiện chương trình đào tạo giáo viên môn tích hợp, đồng thời hỗ trợ các nghiên cứu về phương pháp giảng dạy các môn học này. Chính sách tài chính hỗ trợ có thể bao gồm học bổng, quỹ nghiên cứu hoặc các khoản tài trợ cho các chương trình bồi dưỡng giáo viên.

Cuối cùng, cần có sự điều chỉnh về chỉ tiêu tuyển sinh vào các ngành đào tạo giáo viên môn tích hợp sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế của các cơ sở giáo dục. Việc này giúp đảm bảo rằng số lượng giáo viên được đào tạo đáp ứng được nhu cầu giảng dạy các môn tích hợp trong các trường phổ thông.

4.jpg
Nhà nước cần đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất cho các trường sư phạm. Ảnh minh họa: Trường Đại học Vinh

Trong khi đó, Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Bá Tiến lại cho rằng, khi thực hiện quy hoạch mạng lưới trường sư phạm, việc có các chính sách đầu tư và hỗ trợ phù hợp là cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả của các cơ sở đào tạo giáo viên. Các chính sách này không chỉ giúp cải thiện chất lượng giáo dục mà còn tạo động lực cho sự đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong ngành giáo dục.

Trước tiên, Nhà nước cần đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất của các trường sư phạm. Điều này bao gồm việc xây dựng các phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện, khu vực thực hành và không gian học tập linh hoạt.

Thứ hai là trang bị công nghệ hỗ trợ giảng dạy. Theo thầy Tiến, việc trang bị các công cụ công nghệ như bảng điện tử, máy tính, phần mềm hỗ trợ giảng dạy, các nền tảng học trực tuyến sẽ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Điều này cũng giúp sinh viên sư phạm được tiếp cận với công nghệ mới, qua đó nâng cao khả năng giảng dạy trong môi trường giáo dục số hiện đại.

Thứ ba là tăng chỉ tiêu biên chế cho nhóm đào tạo giáo viên để phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Khi quy mô đào tạo tăng sẽ đòi hỏi số lượng giáo viên đủ lớn để đảm bảo chất lượng dạy và học. Việc tăng chỉ tiêu biên chế sẽ giúp đáp ứng kịp thời yêu cầu này. Việc này không chỉ giúp đảm bảo chất lượng giáo dục mà còn góp phần ổn định nguồn nhân lực cho ngành giáo dục trong dài hạn.

Cuối cùng, các trường sư phạm cần có chính sách thu hút, giữ chân và phát triển đội ngũ giảng viên giỏi. Nhà nước có thể tạo ra các quỹ hỗ trợ học bổng, nghiên cứu khoa học, hoặc tạo ra các cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cho giáo viên và giảng viên sư phạm để thu hút, giữ chân đội ngũ này cống hiến hết mình cho giáo dục.

ĐÀO HIỀN