Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch).
Quy hoạch đặt ra mục tiêu phát triển đến năm 2030, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm đồng bộ và hiện đại với quy mô, cơ cấu và phân bố hợp lý; thiết lập được một hệ thống giáo dục đại học mở, công bằng, bình đẳng, chất lượng và hiệu quả; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của Nhân dân và yêu cầu phát triển đất nước bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Cụ thể, quy mô trên 3 triệu người học, đạt 260 sinh viên và 23 học viên sau đại học trên một vạn dân; tỉ lệ học đại học trên số người trong độ tuổi 18 - 22 đạt 33% trong đó không tỉnh nào có tỉ lệ thấp hơn 15%.
Mục tiêu 23 học viên sau đại học trên một vạn dân là không khó
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp nhận định: “Mục tiêu đạt 23 học viên sau đại học trên một vạn dân (tương đương 0,23% dân số) vào năm 2030 là một dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang nỗ lực nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao.
Trong bối cảnh Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, với nền kinh tế và hệ thống giáo dục còn nhiều thách thức, đây là một mục tiêu đáng chú ý. Nó thể hiện sự tập trung vào việc đào tạo nhân lực chất lượng, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai”.

So với thế giới, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quang cho biết mục tiêu 23 học viên sau đại học trên một vạn dân của Việt Nam không cao, đặc biệt khi đặt cạnh các nước phát triển như Mỹ (khoảng 1,1% dân số có trình độ sau đại học, tương đương 110 học viên trên một vạn dân); Anh (khoảng 1,5%, tương đương 150 học viên trên một vạn dân); Hàn Quốc (khoảng 1,2%, tương đương 120 học viên trên một vạn dân).
Tuy nhiên, sự chênh lệch này là dễ hiểu vì Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển khác, với nguồn lực và cơ sở hạ tầng giáo dục chưa thể sánh bằng.
So với các nước trong khu vực, mục tiêu này nằm ở mức trung bình trong ASEAN, cho thấy Việt Nam có tham vọng cải thiện nhưng chưa phải là quốc gia dẫn đầu về tỷ lệ học viên sau đại học (như Thái Lan khoảng 0,3% tương đương 30 học viên trên 1 vạn dân; Malaysia khoảng 0,4% tương đương 40 học viên trên 1 vạn dân…).
Do đó, với mục tiêu 23 học viên sau đại học trên 1 vạn dân vào năm 2030 là một bước tiến hợp lý trong bối cảnh phát triển của Việt Nam. Nó không quá cao so với các nước phát triển, nhưng cũng không thấp trong khu vực Đông Nam Á. Đây là một mục tiêu khả thi, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại và định hướng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam trong tương lai.
Đồng tình với quan điểm trên, một vị phó hiệu trưởng trường đại học tại Hà Nội cho hay, để đánh giá mục tiêu 23 học viên sau đại học trên một vạn dân là cao hay thấp, cần so sánh với các nước trong khu vực và thế giới.
Vị này chia sẻ, ở Đông Nam Á, tỷ lệ học viên sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) trên 10.000 dân chưa được thống kê đầy đủ, nhưng có thể tham khảo số lượng học viên sau đại học trên tổng dân số.
Tại Singapore, tỷ lệ đào tạo sau đại học khá cao, với hơn 10.000 nghiên cứu sinh tiến sĩ vào năm 2020 trên dân số khoảng 5,5 triệu. Nếu tính cả thạc sĩ, con số có thể cao hơn nhiều; Malaysia cũng đã có hơn 180.000 học viên sau đại học vào năm 2022 trên dân số khoảng 33 triệu, tương đương khoảng 55 học viên sau đại học trên 1 vạn dân; Thái Lan có khoảng 120.000 học viên sau đại học trên tổng dân số gần 70 triệu dân, tương đương khoảng 17 học viên sau đại học trên 1 vạn dân.
“Với mục tiêu 23 học viên sau đại học trên một vạn dân là hợp lý và có thể đạt được, nhưng chưa phải là cao so với các nước tiên tiến. Nếu muốn nâng cao chất lượng nhân lực, cần đẩy mạnh hơn nữa số lượng nghiên cứu sinh và học viên thạc sĩ, đồng thời đảm bảo chất lượng đào tạo”, vị này nhấn mạnh.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Thu Giang – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long cũng đánh giá: “Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nghiên cứu thực tiễn và lý luận khi đưa ra tiêu chí phấn đấu này. Với mạng lưới các trường có đào tạo trình độ sau đại học như hiện nay và định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mục tiêu trên là hoàn toàn khả thi.
Mục tiêu 23 học viên sau đại học trên một vạn dân là vô cùng cần thiết, đặc biệt với yêu cầu nhân lực chất lượng cao để phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Kỷ nguyên cách mạng công nghệ, chuyển đổi số rất cần đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, đồng thời giảm đội ngũ lao động chưa qua đào tạo.
Cô Giang cho biết, Trường Đại học Hạ Long bắt đầu đào tạo trình độ đại học năm 2015, đến năm 2019, nhà trường có khóa đào tạo trình độ đại học đầu tiên tốt nghiệp. Năm 2023, sau 4 khóa sinh viên trình độ đại học tốt nghiệp, trên cơ sở khảo sát nhu cầu của người học, nhà trường đã mở ngành, tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ các ngành Du lịch, Ngôn ngữ Anh, Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành.
“Trường có hạ tầng công nghệ, cơ sở vật chất đủ để tổ chức đào tạo, có đội ngũ cán bộ giảng viên nhiệt tình, tâm huyết, năng lực chuyên môn tốt và trách nhiệm. Bên cạnh đó, nhờ những hỗ trợ của tỉnh Quảng Ninh trong chế độ chi hấp dẫn cho giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ thỉnh giảng, nhà trường có những thuận lợi trong việc mời các nhà khoa học, giảng viên ngoài trường tham gia vào quá trình đào tạo.
Tuy nhiên, hiện nay, nhà trường vẫn gặp một số khó khăn, trong đó lớn nhất là năng lực ngoại ngữ của học viên không đồng đều, khá nhiều học viên gặp khó khăn trong quá trình đạt chuẩn đầu ra về ngoại ngữ của chương trình đào tạo, khiến kế hoạch đào tạo của trường có thể chậm so với lộ trình dự kiến”, cô Giang nhận định.
Nhiều nguyên nhân khiến học cao học dần kém hấp dẫn
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp cũng cho rằng, khó khăn trong đào tạo học viên sau đại học đến từ yêu cầu chuẩn đầu ra ngoại ngữ.
Thầy Quang chia sẻ, hiện nay, nhà trường đang tuyển sinh 7 ngành thạc sĩ, chưa tuyển trình độ tiến sĩ. Mỗi năm, nhà trường tuyển sinh khoảng 70 học viên cao học, quy mô hiện tại là 123 học viên.
Về cơ bản, cũng như các cơ sở giáo dục khác có đào tạo sau đại học theo định hướng ứng dụng, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp có thuận lợi về nhu cầu thực tiễn về nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, công nghệ.
Nhà trường có nhiều phương thức tuyển sinh linh hoạt; chương trình đào tạo cập nhật, có tính thực tiễn do có sự kết hợp từ doanh nghiệp và có các nội dung ứng dụng công nghệ hiện đại giúp chương trình học hiệu quả.
Tuy nhiên, trường gặp khó khi có sự cạnh tranh từ các chương trình quốc tế, các chương trình du học cho bậc thạc sĩ, tiến sĩ. Yêu cầu chuẩn đầu ra ngoại ngữ cao cũng là một thách thức trong công tác tuyển sinh đào tạo. Nhiều học viên muốn đi học nhưng vướng rào cản ngoại ngữ, đặc biệt là đối tượng theo chương trình đào tạo định hướng ứng dụng.
Đánh giá rộng hơn trên phạm vi các trường đại học nói chung, thầy Quang nhận định, có 3 rào cản làm ảnh hưởng đến việc thu hút và đào tạo học viên sau đại học.
Thứ nhất, cơ hội phát triển nghề nghiệp sau khi học chưa nhiều; các đơn vị sử dụng lao động thực tế chưa có nhiều cơ chế hỗ trợ người học sau đại học. Hiện nay có khoảng 25% học viên sau đại học làm việc không đúng ngành, giảm động lực theo học trong nước (Theo khảo sát của MOET - 2023).
Phần lớn những người đi học sau đại học đều làm việc trong các đơn vị nghiên cứu hoặc giáo dục, đào tạo; không nhiều thành phần trong các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực dịch vụ thực tiễn. Nhân sự trong các đơn vị này chưa được tạo điều kiện nhiều về cơ chế, dành nhiều thời gian cho việc học tập sau đại học.
Thứ hai, kinh phí nghiên cứu dành cho sau đại học còn hạn chế. Việt Nam đến nay chỉ chi khoảng 0,5% GDP cho nghiên cứu, trong khi Hàn Quốc là 4,5%, điều này khiến các trường khó đầu tư vào nghiên cứu khoa học – yếu tố quan trọng thu hút học viên sau đại học.
Thứ ba, chất lượng đào tạo chưa thực sự đồng đều và đáp ứng kỳ vọng: Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2023, chỉ 32% giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ, thấp hơn nhiều so với các nước phát triển, ảnh hưởng đến chất lượng chương trình sau đại học. Chỉ một số cơ sở giáo dục lớn của Việt Nam có tiềm lực về đội ngũ giảng dạy, còn nhiều cơ sở khác đang chưa đáp ứng được như kỳ vọng.
Nhìn nhận trên một góc độ khác, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Thu Giang cho rằng, không hẳn các trường đại học đang gặp rào cản trong việc thu hút và đào tạo học viên sau đại học. Hiện nay, hệ thống văn bản quy định về đào tạo thạc sĩ khá đầy đủ và rõ ràng. Các trường được trao quyền tự chủ đảm bảo phát triển ngành đào tạo, trình độ đào tạo theo năng lực và nhu cầu đào tạo của mỗi cơ sở đào tạo.
Tuy nhiên, các trường đại học lại gặp một số khó khăn trong thu hút và đào tạo học viên sau đại học. Bởi các tiêu chuẩn về học thuật sẽ ngày càng phải nâng cao ngang tầm khu vực và thế giới, khiến nhiều học viên e ngại khi đăng ký học các chương trình đào tạo sau đại học.

“Trong xu thế hội nhập quốc tế, không chỉ đào tạo sau đại học mà ngay cả đào tạo trình độ đại học cũng gặp nhiều cạnh tranh với các trường, các chương trình đào tạo nước ngoài.
Đây là xu thế tất yếu và là môi trường sức ép cần thiết để các cơ sở đào tạo bắt buộc phải nâng cao chất lượng đào tạo đạt các tiêu chuẩn quốc tế, cải tiến cung cách phục vụ người học, tạo những yếu tố cạnh tranh có lợi. Như vậy, có thể không những thu hút được người học trong nước mà còn có thể thu hút học viên quốc tế tới học tập và nghiên cứu tại Việt Nam”, cô Thu Giang nhấn mạnh.
Các trường đại học ở hiện nay đang gặp nhiều rào cản trong việc thu hút và đào tạo học viên sau đại học, đặc biệt là trong bối cảnh hướng đến mục tiêu đạt 23 học viên sau đại học trên một vạn dân.
Theo đánh giá từ một vị phó hiệu trưởng trường đại học tại Hà Nội, rào cản có thể đến từ nhận thức và nhu cầu của người học. Phần lớn người lao động tập trung vào việc có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp cử nhân thay vì tiếp tục học lên cao. Nhiều người cho rằng bằng cấp sau đại học không mang lại lợi ích rõ rệt về thu nhập hoặc thăng tiến trong sự nghiệp.
Chính sách hỗ trợ tài chính chưa hấp dẫn. Học phí sau đại học thường cao, trong khi chính sách học bổng, hỗ trợ tài chính chưa thực sự khuyến khích người học.
Sự cạnh tranh từ nước ngoài cũng là một yếu tố có tính tác động. Nhiều học viên có xu hướng tìm kiếm cơ hội học thạc sĩ, tiến sĩ tại nước ngoài do chất lượng đào tạo và cơ hội nghề nghiệp tốt hơn.
Ngoài ra, nhiều chương trình sau đại học còn mang nặng tính lý thuyết, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động; Số lượng giảng viên có trình độ cao (tiến sĩ, giáo sư) còn hạn chế, trong khi điều kiện nghiên cứu, cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đào tạo sau đại học.
“Việc hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai các chương trình đào tạo ứng dụng và thực tập. Nhiều trường vẫn chưa có hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm hiện đại đủ để phục vụ nghiên cứu chuyên sâu. Một số quy định về đào tạo sau đại học còn cứng nhắc, chưa tạo điều kiện linh hoạt cho người học, đặc biệt là các chương trình đào tạo liên ngành, quốc tế", vị quản lý này đánh giá.
Làm gì để thu hút học viên sau đại học?
Để các cơ sở giáo dục đại học nhanh chóng tiệm cận mục tiêu chung hướng tới tỷ lệ 23 học viên sau đại học trên một vạn dân, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Thu Giang nhận định, các cơ sở đào tạo cần tập trung nguồn lực đầu tư cho đào tạo sau đại học, phát triển đội ngũ giảng viên, đổi mới chương trình đào tạo, nội dung và phương pháp dạy học.
Đồng thời, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong tổ chức đào tạo, đẩy mạnh quảng bá tuyển sinh, hợp tác trong đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo, gây dựng niềm tin đối với người học.
Một phó hiệu trưởng trường đại học tại Hà Nội cũng cho rằng, giải pháp để thu hút và đào tạo học viên sau đại học là cải tiến chương trình đào tạo, tập trung vào tính ứng dụng và đáp ứng nhu cầu thị trường; Tăng cường liên kết với doanh nghiệp, mở rộng các chương trình hợp tác quốc tế;
Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách học bổng, hỗ trợ tài chính hấp dẫn hơn; Nâng cao chất lượng giảng viên và đầu tư vào cơ sở vật chất hiện đại; Đẩy mạnh truyền thông để nâng cao nhận thức của xã hội về lợi ích của việc học sau đại học.
“Nhìn chung, để đạt được mục tiêu phát triển số lượng học viên sau đại học, các trường đại học cần có sự thay đổi toàn diện về chính sách, chương trình đào tạo và phương thức tổ chức, đảm bảo vừa tăng trưởng về số lượng vừa giữ vững chất lượng đào tạo”, vị này cho hay.
Đề xuất giải pháp nâng cao số lượng học viên sau đại học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Quang có những định hướng cụ thể, tương đồng với quan điểm của các chuyên gia trên, bao gồm nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cường nghiên cứu khoa học, mở rộng hợp tác quốc tế và đẩy mạnh chuyển đổi số.
Thầy Quang cho biết, ngoài các đầu mục này, những yếu tố khác như học phí, chất lượng đào tạo, cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp cũng có tác động đến quyết định học cao học của nhiều người học.
“Cụ thể, học phí cao học hiện nay khoảng 30-50 triệu đồng/năm, vượt khả năng chi trả của nhiều người học, đặc biệt là sinh viên mới ra trường với mức lương khởi điểm trung bình 7-8 triệu đồng/tháng. Điều này khiến họ chần chừ, trong khi các trường khó giảm học phí do tự chủ tài chính.
Bên cạnh đó, có không ít học viên sau đại học phải tìm việc trái ngành, làm giảm động lực học tiếp. Chất lượng đào tạo cũng còn hạn chế, khi nhiều chương trình cao học chưa đáp ứng kỳ vọng thực tiễn của người học, đặc biệt ở các ngành kỹ thuật, công nghệ. Các yếu tố này khiến người học cân nhắc kỹ có nên học cao học hay không”, thầy Quang chia sẻ thêm.
Từ thực tế trên, vị phó hiệu trưởng nhận định, nên tăng lương và ưu đãi tuyển dụng cho người có trình độ sau đại học để tạo động lực, bởi lương khởi điểm hiện nay cho thạc sĩ (khoảng 10-12 triệu đồng/tháng) không đủ hấp dẫn so với chi phí học. Tăng lương sẽ khuyến khích người học đầu tư vào cao học.
Việc ưu đãi tuyển dụng vị trí cao hơn hoặc có trợ cấp đối với học viên sau đại học khi tốt nghiệp cũng giúp làm giảm lãng phí nhân lực, tận dụng được nhân lực đúng chuyên môn, giảm thất nghiệp ẩn.
Thầy Quang cho biết, Chính phủ và doanh nghiệp có thể áp dụng chính sách này, như ưu tiên trong tuyển công chức đã thử nghiệm ở một số địa phương hoặc trợ cấp nghiên cứu, phù hợp với mục tiêu 23 học viên trên một vạn dân. Tuy nhiên, cần kèm theo cải thiện chất lượng đào tạo để đảm bảo trình độ thực sự xứng đáng với ưu đãi, tránh lãng phí nguồn lực.
“Trước mắt, các trường đại học cần tăng cường liên kết doanh nghiệp trong các vấn đề về tài trợ học phí, cam kết đảm bảo việc làm; Mở rộng hình thức đào tạo trực tuyến, đào tạo kết hợp cho các bậc đào tạo sau đại học để tăng cường thu hút thêm các học viên ở các địa phương vùng sâu, vùng xa;
Nâng cao chất lượng chất lượng giảng viên đào tạo có trình độ cao như giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ để đảm bảo chất lượng đào tạo; Đầu tư cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu chuyên sâu cho các lĩnh vực ở bậc sau đại học (phòng thực hành, thí nghiệm, các thiết bị nghiên cứu hiện đại); Tăng cường các ưu đãi nghề nghiệp, ưu tiên tuyển dụng, giữ chân nhân tài. Như vậy nước ta có thể đạt được mục tiêu 23 học viên sau đại học trên một vạn dân một cách bền vững”, thầy Quang nhấn mạnh.