Ngày 18/3, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 51/NQ-CP Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế".
Mục đích của Chương trình hành động nhằm quán triệt chủ trương, yêu cầu của Bộ Chính trị tại Kết luận số 91-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW; nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, tổ chức, đơn vị, nhất là người đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện Kết luận số 91-KL/TW, quyết tâm hoàn thành các mục tiêu đề ra.
Xác định, cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để các bộ, cơ quan, địa phương tập trung chỉ đạo nhằm tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã đề ra tại Nghị quyết số 29-NQ/TW và Kết luận số 91-KL/TW.
Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo chủ trương của Đảng.
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 91-KL/TW cũng nêu rõ một số nhiệm vụ, giải pháp.
Thứ nhất, quán triệt, nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền trong tổ chức triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Đối với nhiệm vụ, giải pháp này, Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác truyền thông chính sách về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để nâng cao nhận thức của toàn xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, công chức, viên chức, người lao động ngành Giáo dục trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo theo hướng khoa học, hiện đại, đồng bộ, liên thông, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội trong nước, kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn, bảo đảm khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ, khả thi, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; bảo đảm sự đồng bộ, liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng Đề án, báo cáo xin chủ trương của Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về phát triển giáo dục và đào tạo và Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển giáo dục, đào tạo để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của cả người dạy và người học ở tất cả các cấp học, bậc học, nhất là giáo dục đại học, thực hiện học tập suốt đời; thực hiện kiên cố hóa trường lớp học; phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; miễn học phí cho trẻ em, học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông; đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học.
Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ trong đổi mới giáo dục và đào tạo. Trong đó, cần sớm hoàn thiện để trình Quốc hội thông qua Luật Nhà giáo; xây dựng Luật Học tập suốt đời; rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp và các quy định về đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo, quản trị nhà trường, các chiến lược, quy hoạch của ngành Giáo dục; nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định để tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong việc quyết định biên chế, tổ chức bộ máy, chính sách đối với nhà giáo và phân bổ ngân sách nhà nước cho ngành Giáo dục.
Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; bảo đảm đồng bộ, liên thông từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục đại học; nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm giải trình, phát huy dân chủ trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; chính sách, cơ chế tự chủ đối với các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp bảo đảm phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện thực tiễn trong nước.

Tiếp tục chỉ đạo thực hiện quy định bí thư cấp ủy kiêm chủ tịch Hội đồng trường, Hội đồng đại học công lập; nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng trường, hiệu trưởng, giám đốc học viện, giám đốc đại học; mối quan hệ giữa chủ tịch Hội đồng trường với hiệu trưởng, giám đốc học viện, giám đốc đại học, trong đó cần có quy định phù hợp với đặc thù của các trường thuộc khối Công an, Quân đội.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các địa phương đánh giá toàn diện việc thực hiện chủ trương sắp xếp, sáp nhập trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên trên cả nước và đề xuất giải pháp phù hợp, tạo thuận lợi cho công tác quản lý; tiếp tục hoàn thiện và phát triển hệ thống các trung tâm nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu học tập của người dân.
Chủ trì, phối hợp với Hội Khuyến học Việt Nam và các cơ quan liên quan nghiên cứu, rà soát hoàn thiện thiết chế xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, trong đó lưu ý có cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả mọi người bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, xây dựng xã hội học tập và học tập suốt đời.
Tăng cường năng lực đội ngũ thanh tra giáo dục, góp phần nâng cao chất lượng công tác thanh tra; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm tra, giám sát đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên và giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, giáo dục quốc phòng và an ninh; giáo dục thể chất, hoạt động thể thao trường học cho học sinh, sinh viên, học viên.
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp xây dựng và tổ chức triển khai có hiệu quả Chương trình giáo dục mầm non mới với nội dung và phương pháp chăm sóc, giáo dục tiên tiến.
Nghiên cứu xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ Đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi, Đề án đổi mới Chương trình giáo dục mầm non để huy động các nguồn lực, bảo đảm các điều kiện thực hiện phổ cập giáo dục mẫu giáo với mục tiêu trẻ em mẫu giáo từ 3 đến 5 tuổi được tiếp cận giáo dục mầm non có chất lượng; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định để có căn cứ thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm.
Tiếp tục hoàn thiện, triển khai có hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông; đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phẩm chất và năng lực của người học.
Tiếp tục thực hiện một chương trình giáo dục phổ thông thống nhất trong cả nước, mỗi môn học có một hoặc một số sách giáo khoa và xã hội hóa việc biên soạn sách giáo khoa; nghiên cứu đề xuất Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách sử dụng ngân sách nhà nước đối với một số sách giáo khoa không thực hiện được xã hội hóa như sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số, sách giáo khoa một số ngoại ngữ và sách chữ nổi cho học sinh khiếm thị; từng bước thực hiện sách giáo khoa điện tử; khuyến khích phát triển học liệu là các loại sách nói, sách cỡ chữ lớn,... để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học.
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định về chính sách bảo tồn và phát triển tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số để nâng cao chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Phát triển giáo dục thường xuyên đa dạng về nội dung và hình thức, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân; tăng cường công tác xóa mù chữ, giảm tỉ lệ mù chữ ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tiếp tục bảo đảm quyền học tập và học tập có chất lượng đối với học sinh khuyết tật; hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát và kiểm tra các địa phương việc thực hiện quy hoạch hệ thống cơ sở giáo dục chuyên biệt đối với người khuyết tật và hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh, sinh viên, học viên gắn với xây dựng, phát huy hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Đẩy mạnh triển khai xây dựng văn hoá học đường, giáo dục cho học sinh, sinh viên, học viên lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng cống hiến phát triển đất nước. Tăng cường công tác tư vấn học đường, tư vấn hướng nghiệp, giáo dục thể chất, hoạt động thể thao cho học sinh, sinh viên, học viên; xây dựng trường học an toàn, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trẻ em, học sinh toàn diện cả về thể chất và tinh thần; tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục cho trẻ em mầm non, học sinh, sinh viên, học viên.
Thứ tư, tập trung đầu tư hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và nâng cao tiềm lực nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục, đào tạo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục phát triển giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập quốc tế, gắn với thị trường lao động, chú trọng cả số lượng, cơ cấu, chất lượng đào tạo, quan tâm công tác đào tạo, đào tạo lại cho người lao động để thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường và công nghệ sản xuất.
Có giải pháp nâng cao chất lượng công tác phân luồng; định hướng nghề nghiệp cho học sinh ngay từ trung học cơ sở để tăng số lượng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp; rà soát, tổng kết đánh giá việc triển khai thực hiện Quyết định số 522/QĐ/TTg; trên cơ sở đó, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền về định hướng, giải pháp bảo đảm hiệu quả, phù hợp. Thực hiện đào tạo nghề, dạy văn hoá, hình thành năng lực nghề nghiệp, kỹ năng khởi nghiệp sáng tạo cho người học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Song song nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện tiêu chuẩn quốc gia cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp; tiêu chuẩn cơ sở vật chất trong thực hành, thực nghiệm, thí nghiệm; định mức kinh tế - kỹ thuật về đào tạo; danh mục thiết bị đào tạo tối thiểu cho các ngành, nghề theo các cấp độ và trình độ đào tạo.
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường nguồn lực đầu tư trọng tâm, trọng điểm đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ, chíp bán dẫn và các ngành phục vụ phát triển các công nghệ chiến lược, then chốt.
Nghiên cứu, đề xuất các quy định về cơ chế, chính sách đột phá và giải pháp đầu tư nguồn lực tương xứng để phát triển các đại học quốc gia, đại học vùng, các cơ sở giáo dục đại học xuất sắc theo hiệp định quốc tế, các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm, cơ sở giáo dục đại học sư phạm ngang tầm các nước tiên tiến, có đủ năng lực, điều kiện để giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, hoàn thiện các quy định liên quan đến nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp theo hướng tạo thuận lợi, tháo gỡ các nút thắt, rào cản, có tính đến yếu tố đặc thù về độ trễ, rủi ro trong nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi để giáo viên, giảng viên, học sinh, sinh viên, học viên tham gia nghiên cứu khoa học gắn với hoạt động dạy và học.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục giáo dục nghề nghiệp theo hướng ứng dụng và chuyển giao công nghệ với sự tham gia của người học, nhà giáo, chuyên gia, nghệ nhân, người sử dụng lao động. Gắn hoạt động đào tạo với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện nghiên cứu khoa học theo cơ chế đặt hàng; gắn kết các tổ chức nghiên cứu khoa học với nhà trường và doanh nghiệp. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học giáo dục, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong học sinh, sinh viên, học viên.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời; đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định quy định Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt Nam; nghiên cứu, bổ sung trình độ cao hơn của giáo dục nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường lao động và xu hướng quốc tế.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và triển khai hiệu quả các quy định về hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, linh hoạt, liên thông, thúc đẩy xã hội học tập và học tập suốt đời; phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập phù hợp với xu thế của thế giới và điều kiện ở Việt Nam, quan tâm đầu tư cho giáo dục chất lượng cao.
Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết về liên thông giữa các trình độ trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; phát triển giáo dục số, giáo dục thông minh, trang bị cho trẻ em mầm non, học sinh, sinh viên, học viên các kiến thức, kỹ năng thiết yếu để thích ứng học tập, làm việc hiệu quả, an toàn trong không gian số; nghiên cứu, phát triển, sử dụng các hệ thống, ứng dụng trí tuệ nhân tạo bảo đảm hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực cho con người và cộng đồng; góp phần xây dựng thế hệ công dân số Việt Nam an toàn, văn minh, lành mạnh trên không gian mạng. Phát triển các phương thức đào tạo, các nền tảng dạy và học trực tuyến mở; đầu tư xây dựng, nâng cấp các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành ảo.
Nghiên cứu, thí điểm và triển khai thực hiện các mô hình trường học mới như trường học số, trường học thông minh, trường học hạnh phúc.

Thứ sáu, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; thu hút, trọng dụng nhân tài làm việc trong ngành Giáo dục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục phát triển, nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục các cấp, chú trọng năng lực quản lý, quản trị hiện đại, đổi mới sáng tạo, các kỹ năng mềm, kỹ năng số; nghiên cứu cơ chế, chính sách điều động, luân chuyển giáo viên giữa các địa phương để giải quyết căn bản tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Phát triển đội ngũ nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề đủ năng lực tham gia đào tạo các trình độ của giáo dục nghề nghiệp.
Nghiên cứu, rà soát, đề xuất đổi mới quản lý nhà nước đối với nhà giáo một cách đồng bộ, gắn với quản lý chuyên môn và chất lượng giáo dục, phát huy dân chủ, tôn trọng tự do sáng tạo, chuyên môn học thuật, đề cao đạo đức, trách nhiệm của nhà giáo.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý biên chế, tiêu chuẩn viên chức, trong đó lưu ý yếu tố tăng quy mô trường, lớp học ở thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đông dân cư; xây dựng các trường phổ thông theo mô hình liên cấp, giảm điểm trường lẻ gắn với nâng cao chất lượng, phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn, điều kiện vùng, miền, địa phương, đất nước.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan liên quan xây dựng các quy định về chính sách tiền lương và phụ cấp ưu đãi của đội ngũ viên chức ngành Giáo dục, bảo đảm thực hiện đúng chủ trương về lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tuỳ theo tính chất công việc, theo vùng theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW, Kết luận số 91-KL/TW đã đề ra và có lộ trình thực hiện phù hợp; xây dựng Nghị định quy định chế độ phụ cấp ưu đãi đối với viên chức trong các cơ sở giáo dục công lập theo Quyết định số 918/QĐ-TTg ngày 27 tháng 8 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 83-KL/TW ngày 21 tháng 6 năm 2024 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 142/2024/QH15 ngày 29 tháng 6 năm 2024 về cải cách tiền lương, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và trợ cấp xã hội.
Thứ bảy, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm đủ điều kiện cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính nghiên cứu, tổng kết các mô hình tốt, cách làm hay, làm cơ sở xây dựng đề án, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực phát triển giáo dục và đào tạo, trên tinh thần Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động sự tham gia hiệu quả của toàn xã hội vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, bảo đảm công bằng, minh bạch và nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy mạnh mẽ, khuyến khích phát triển giáo dục ngoài công lập.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách hỗ trợ người học từ ngân sách nhà nước thông qua cấp học bổng hoặc hỗ trợ miễn giảm học phí đối với các ngành, nghề Nhà nước cần ưu tiên phát triển ở các trình độ đào tạo, mở rộng đối tượng và nâng mức ưu đãi cho vay tín dụng; chính sách hỗ trợ cho người học là đối tượng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người dân tộc thiểu số rất ít người, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo; chính sách sinh viên theo chế độ cử tuyển; chính sách cho học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học; chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, đối tượng chính sách khi sử dụng dịch vụ giáo dục nghề nghiệp.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2026 - 2035 để kiên cố hoá trường học, xoá phòng học tạm, xây dựng trường chuẩn quốc gia và bảo đảm đầy đủ phòng học và cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tối thiểu, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, phấn đấu đến năm 2030 tỉ lệ phòng học được kiên cố hoá đạt 100%.
Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Chương trình đầu tư công hiện đại hoá giáo dục nghề nghiệp và Chương trình đầu tư công hiện đại hoá giáo dục đại học phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để tạo đột phá trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo.
Thứ tám, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo; tập trung nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, học viên, từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học; tăng cường đưa tiếng Việt và văn hoá Việt Nam ra nước ngoài.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học để nâng cao năng lực ngoại ngữ của học sinh, sinh viên, học viên; xây dựng đề án trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án quốc gia từng bước đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2045 và tổ chức triển khai thực hiện.
Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách để khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo, cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong nước liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục và đào tạo tiên tiến trên thế giới; thu hút các cơ sở giáo dục đại học uy tín trên thế giới thành lập phân hiệu tại Việt Nam; khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam; thành lập các trung tâm kết nối tri thức để chia sẻ tri thức của hệ thống các cơ sở giáo dục, đào tạo Việt Nam với các cơ giáo dục đại học trong khu vực và quốc tế.
Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng đề án, cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc ở các cơ sở giáo dục, đào tạo tại Việt Nam.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, nhất là đào tạo giảng viên trình độ tiến sĩ và chuyên gia các ngành kỹ thuật, các ngành trọng điểm và công nghệ cao; ưu tiên cấp học bổng cho sinh viên đi học ở các nước phát triển về các ngành công nghệ, đặc biệt các ngành mới như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, bán dẫn, năng lượng tái tạo.
Xem toàn bộ Nghị quyết số 51/NQ-CP, TẠI ĐÂY.