Bối cảnh mới tạo ra nhiều điều kiện nhưng cũng không ít thách thức đối với GDĐH

10/05/2025 06:27
Tường San

GDVN -Bối cảnh hiện nay, hợp tác quốc tế trong quản trị đại học không chỉ là trao đổi về học thuật, mà còn là quá trình huy động, tối ưu hóa các nguồn lực hiện có.

Chiều 09/05/2025, tại Trường Đại học Hàng hải Việt Nam đã tiếp tục diễn ra 02 phiên báo cáo, thảo luận trong khuôn khổ chương trình Hội thảo khoa học quốc gia "Quản trị đại học gắn với nghiên cứu khoa học trong bối cảnh mới" do Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức.

Cần có chính sách đồng bộ, tăng cường đầu tư, hợp tác trong nghiên cứu, phát triển công nghệ

Báo cáo tại phiên thứ ba, Tiến sĩ Nguyễn Nghĩa – Thư ký Hội đồng khoa học, Viện công nghệ VinIT đã trình bày về vấn đề công nghệ, nghiên cứu và đào tạo tại Việt Nam hiện nay. Theo đó, Tiến sĩ Nghĩa đã nhấn mạnh những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển công nghệ trong nước, đơn cử như Viện công nghệ VinIT.

Cụ thể, Viện đã đạt được thành tựu nổi bật trong việc phát triển các công nghệ mới như xử lý nước thải, năng lượng tái tạo, công nghệ y tế, công nghệ vi mô và công nghệ thông tin, ... Một số sản phẩm công nghệ đã được thương mại hóa và bước đầu ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn.

Bên cạnh đó, mối quan hệ hợp tác giữa các viện nghiên cứu và trường đại học cũng được đánh giá cao, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

TS NN2.JPG
Tiến sĩ Nguyễn Nghĩa – Thư ký Hội đồng khoa học, Viện công nghệ VinIT trình bày tại Hội thảo. Ảnh: Thúy Hiền.

Tuy nhiên, thầy Nghĩa cũng chỉ ra những thách thức còn tồn tại như thiếu kinh phí, khó khăn trong quá trình thương mại hóa sản phẩm công nghệ và sự liên kết còn hạn chế giữa các đơn vị nghiên cứu với doanh nghiệp. Từ đó, khẳng định tầm quan trọng của việc tăng cường đầu tư, hoàn thiện chính sách và thúc đẩy hợp tác đa ngành nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của Việt Nam trong thời gian tới.

Việt Nam hiện đang đi đúng hướng trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển công nghệ. Tuy nhiên, để thúc đẩy hiệu quả hơn, cần có chính sách hỗ trợ đồng bộ, tăng cường đầu tư và mở rộng hợp tác giữa các bên liên quan.

Cũng tại phiên báo cáo thứ ba, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Hảo - Trưởng Bộ phận Học thuật xuất sắc, Trường Đại học Quốc tế Miền Đông trình bày tham luận về quản trị cơ sở giáo dục đại học trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo. Cụ thể, Phó Giáo sư Hảo đã chỉ ra tiềm năng to lớn của AI trong việc tự động hóa các quy trình như đánh giá, phân tích dữ liệu học tập, hỗ trợ cá nhân hóa quá trình học tập cũng như tăng cường tương tác giữa sinh viên và giảng viên.

Tuy nhiên, việc triển khai AI vào giáo dục cũng đang đối mặt với không ít thách thức, đặc biệt là vấn đề đào tạo đội ngũ giảng viên, bảo mật dữ liệu cá nhân của sinh viên và sự thiếu hụt trong kết nối giữa các cơ sở giáo dục và doanh nghiệp công nghệ.

Lê văn hảo.JPG
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Hảo - Trưởng Bộ phận Học thuật xuất sắc, Trường Đại học Quốc tế Miền Đông

Trước những thách thức này, thầy Hảo đề xuất một số giải pháp như xây dựng chương trình bồi dưỡng chuyên sâu cho giảng viên, thành lập bộ phận chuyên trách về AI trong trường đại học, đồng thời tăng cường hợp tác với các công ty công nghệ để đảm bảo ứng dụng AI một cách hiệu quả, công bằng và đạo đức. Tóm lại, AI sẽ là yếu tố then chốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chất lượng quản trị đại học nếu được ứng dụng một cách bài bản và có trách nhiệm.

Chia sẻ ý kiến sau phần trình bày tham luận tại phiên thứ ba, Thạc sỹ Lê Vũ - Giám đốc Trung tâm Học liệu và truyền thông Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng cho hay, trí tuệ nhân tạo (AI) đang dần trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa giáo dục. Nhiều trường đại học ở cả trong và ngoài nước, đang từng bước ứng dụng AI vào công tác giảng dạy, nghiên cứu và quản trị, mở ra nhiều tiềm năng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả vận hành.

Mặc dù tiềm năng là rất lớn, việc đưa AI vào môi trường giáo dục hiện nay vẫn vấp phải nhiều rào cản do thiếu hướng dẫn cụ thể từ cấp quản lý đến các cơ sở giáo dục về cách triển khai AI một cách hiệu quả và phù hợp.

Do vậy, để việc ứng dụng AI trong giáo dục diễn ra bài bản và bền vững, cần sớm triển khai, xây dựng và cập nhật kịp thời các chính sách, văn bản pháp luật nhằm định hướng và điều chỉnh việc sử dụng AI trong giáo dục theo hướng an toàn, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn. Đề xuất với Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm có dự thảo về chính sách sử dụng AI trong giáo dục đại học.

Qua các báo cáo được trình bày, Tiến sĩ Lê Trường Tùng – Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học FPT, chủ tọa phiên báo cáo thứ ba chia sẻ, các công cụ AI (ChatGPT) đã và đang thâm nhập sâu vào hầu hết các lĩnh vực trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra không chỉ là việc ứng dụng AI như thế nào, mà còn là sử dụng AI một cách có đạo đức và có trách nhiệm. Đây là lý do tại sao nhiều quốc gia trên thế giới đã phải xây dựng các bộ quy tắc, khung pháp lý để tạo ra một "vỏ bọc" an toàn trong việc triển khai và sử dụng công nghệ AI.

Trong lĩnh vực giáo dục đại học, điều này đặt ra câu hỏi lớn về việc giáo dục đại học sẽ thay đổi ra sao trước làn sóng AI. Hiện nay, nhiều cơ sở giáo dục đại học đã chủ động triển khai các mô hình đào tạo mới, trong đó AI được sử dụng như công cụ hỗ trợ người học – thay thế dần những phương pháp học tập truyền thống vốn đã không còn phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

Đặc biệt, theo thầy Tùng, điểm thay đổi rõ rệt và sâu sắc nhất mà AI mang lại trong giáo dục chính là khả năng cá thể hóa quá trình học tập. AI có thể phân tích nhu cầu, khả năng, tốc độ tiếp thu của từng cá nhân, từ đó đưa ra nội dung và phương pháp học phù hợp. Khi đó, mô hình học tập truyền thống – nơi người học bị ràng buộc trong một khung chương trình cứng nhắc sẽ dần bị thay thế bằng mô hình học tập linh hoạt, cá nhân hóa và hiệu quả hơn.

Còn thiếu khung pháp lý và chính sách rõ ràng về việc sử dụng AI trong giáo dục đại học

Trong phiên báo cáo thứ tư, Thạc sỹ Lê Vũ – Giám đốc Trung tâm Học liệu và truyền thông, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng đã trình bày tham luận về đề xuất lộ trình thực hiện và các giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản trị đại học gắn với nghiên cứu khoa học.

_DSC0692.JPG
Thạc sỹ Lê Vũ – Giám đốc Trung tâm Học liệu và truyền thông, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật, Đại học Đà Nẵng đã trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh: Thúy Hiền.

Thầy Vũ cho hay, trên thực tế, dù tiềm năng rất lớn, nhưng việc triển khai AI trong giáo dục đại học tại Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều rào cản do thiếu khung pháp lý và chính sách rõ ràng về việc sử dụng AI trong lĩnh vực giáo dục. Điều này đã gây ra khó khăn trong việc triển khai, đánh giá và kiểm soát các công cụ AI.

Hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ, nhiều trường còn thiếu trang thiết bị, nền tảng dữ liệu và hệ thống xử lý đủ mạnh để vận hành các giải pháp AI quy mô lớn. Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong cả hai lĩnh vực công nghệ thông tin và giáo dục để phát triển và ứng dụng AI hiệu quả. Không những vậy, việc sử dụng AI phải đảm bảo tôn trọng quyền cá nhân, tránh các sai lệch trong phân tích dữ liệu và đưa ra khuyến nghị học tập sai lệch.

Để thúc đẩy việc ứng dụng AI một cách bài bản, hiệu quả và bền vững, thầy Vũ cho rằng, cần thực hiện theo lộ trình 3 giai đoạn.

Giai đoạn 1 (2023–2025), thực hiện xây dựng kế hoạch tổng thể cho việc ứng dụng AI trong giáo dục đại học. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, chuyên gia về AI và giáo dục cũng như ban hành các hướng dẫn, quy định và khung pháp lý cơ bản về triển khai AI.

Giai đoạn 2 (2026–2028) là giai đoạn phát triển hệ thống công nghệ nền tảng, như dữ liệu học tập tập trung, hệ thống AI hỗ trợ quản lý và giảng dạy. Đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp và tổ chức quốc tế về AI. Mở rộng mô hình đào tạo mới kết hợp AI và phương pháp giáo dục hiện đại.

Giai đoạn 3 (2029–2052) thực hiện việc nhân rộng các mô hình đã thành công, tích hợp AI vào toàn bộ quy trình quản lý và đào tạo. Xây dựng mạng lưới học tập cá nhân hóa dựa trên AI, hướng tới nền giáo dục mở, linh hoạt, không giới hạn không gian – thời gian. Cập nhật thường xuyên khung pháp lý và đạo đức AI phù hợp với xu hướng công nghệ mới.

Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trở thành xu hướng tất yếu

Cũng tại phiên báo cáo thứ tư, Tiến sĩ Nguyễn Minh Huyền Trang, công tác tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã trình bày tham luận về quốc tế hóa quản trị đại học gắn với nghiên cứu khoa học trong bối cảnh mới.

Theo cô Trang, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo đã trở thành xu hướng tất yếu đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam. Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế không chỉ góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu mà còn tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tham gia giải quyết các thách thức toàn cầu.

Thực tế đã chỉ ra rằng, hợp tác quốc tế mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Trước hết, việc phối hợp nghiên cứu giữa các quốc gia giúp tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đồng thời rút ngắn thời gian thực hiện nhờ chia sẻ dữ liệu, chuyên môn và công nghệ.

_DSC0696.JPG
Tiến sĩ Nguyễn Minh Huyền Trang, công tác tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã trình bày tham luận về quốc tế hóa quản trị đại học gắn với nghiên cứu khoa học trong bối cảnh mới. Ảnh: Thúy Hiền

Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế còn giúp tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính, trang thiết bị hiện đại và kinh nghiệm quốc tế, từ đó nâng cao năng lực nghiên cứu trong nước. Ngoài ra, hợp tác quốc tế là chìa khóa để giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh năng lượng và phát triển bền vững – những thách thức đòi hỏi sự chung tay của nhiều quốc gia.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã có bước tiến đáng kể trong việc hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ khi gia tăng về tỷ lệ công bố quốc tế. Điều này đã phản ánh xu hướng gia tăng rõ rệt trong hợp tác học thuật toàn cầu của nước ta.

Tại Việt Nam, thực tiễn cho thấy, nhiều mô hình hợp tác quốc tế đã phát huy hiệu quả rõ rệt. Việc liên kết giữa các trường đại học và học viện trong nước theo tinh thần Nghị quyết 57 đã tạo nền tảng cho các chương trình đào tạo và nghiên cứu liên ngành. Ngoài ra, các chương trình nghiên cứu liên quốc gia và liên ngành cũng đang được phát triển mạnh, đặc biệt là trong các lĩnh vực có tính ứng dụng cao, góp phần đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Đáng nói, dù đạt được nhiều kết quả tích cực, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học tại Việt Nam vẫn đối mặt với không ít khó khăn. Trong đó, hạn chế lớn nhất là nguồn tài chính dành cho nghiên cứu còn eo hẹp, gây khó khăn trong việc duy trì và mở rộng các dự án hợp tác.

Hơn nữa, việc chuyển đổi số còn chậm và thiếu sự đồng bộ cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hợp tác. Để khắc phục, Việt Nam cần xây dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia có tầm nhìn dài hạn, trong đó xác định rõ vai trò của hợp tác quốc tế. Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, cải thiện cơ chế tài chính, và tăng cường năng lực của đội ngũ nghiên cứu trong nước để có thể tham gia sâu hơn vào mạng lưới khoa học toàn cầu.

Vì vậy, theo cô Trang, hợp tác quốc tế là động lực quan trọng thúc đẩy nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. Với những lợi ích thiết thực và xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng, việc tăng cường hợp tác quốc tế cần được xem là chiến lược trọng tâm trong phát triển khoa học và công nghệ quốc gia. Để làm được điều đó, Việt Nam cần không ngừng cải thiện chính sách, đầu tư cho nghiên cứu, và mở rộng các kênh hợp tác đa phương, từ đó từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế khoa học trên trường quốc tế.

Theo Tiến sĩ Huyền Trang, hợp tác quốc tế trong quản trị đại học trong bối cảnh hiện nay chính là khai thác, tận dụng tối đa tất cả các nguồn lực của các cơ sở giáo dục đại học trên cơ sở hỗ trợ của những cơ quan quản lý nhà nước có liên quan và sự đồng hành của những trường đại học, chuyên gia trên thế giới.

Để hoạt động nghiên cứu khoa học đạt được hiệu quả cao và bền vững, một yếu tố then chốt không thể thiếu là quản trị nghiên cứu khoa học một cách hiệu quả và phù hợp với bối cảnh thực tiễn. Thực tế cho thấy, nhiều trường đại học tại Việt Nam hiện đang gặp khó khăn về tài chính, cơ chế vận hành, cũng như trong việc điều phối các hoạt động và phân bổ nguồn lực cho nghiên cứu. Trong bối cảnh đó, hợp tác quốc tế trở thành một giải pháp chiến lược, giúp tận dụng tối đa các nguồn lực về con người, tài chính, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các đối tác trên toàn cầu.

Cô Trang cho rằng, để khai thác tốt tiềm năng hợp tác quốc tế, trước tiên các trường đại học trong nước cần tăng cường kết nối, hợp tác với nhau. Trên thực tế, nhiều trường đã xây dựng được mạng lưới hợp tác riêng dựa trên thế mạnh và lĩnh vực chuyên sâu của mình. Việc liên kết và tận dụng thế mạnh của từng đơn vị sẽ góp phần hình thành một hệ sinh thái nghiên cứu gắn kết, bổ trợ lẫn nhau và đủ sức cạnh tranh ở tầm khu vực, quốc tế.

Vậy nên, thông điệp quan trọng được nhấn mạnh là toàn bộ hệ thống các cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam cần vận hành như một chỉnh thể thống nhất, cùng hướng tới mục tiêu phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học một cách bền vững và vươn tầm thế giới.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cũng bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Minh Huyền Trang về tầm quan trọng của hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và giáo dục đại học. Theo Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, trong nhiều năm qua, nguồn lực nhà nước đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với vị thế của chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu.

Để khắc phục thực trạng này, cần thiết phải nâng cao ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học. Đồng thời bảo đảm rằng nguồn kinh phí đó được sử dụng một cách công bằng, bình đẳng, từ đó mới có thể phát huy tối đa năng lực và tiềm năng của đội ngũ trí thức.

_DSC0703.JPG
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam chia sẻ ý kiến tại phiên thảo luận thứ 4 của Hội thảo. Ảnh: Thúy Hiền.

Bên cạnh đó, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến cũng nhấn mạnh vai trò của hợp tác quốc tế như một phương thức chiến lược để huy động thêm nguồn lực đầu tư, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Tuy nhiên, hợp tác trong nước giữa các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu, và các bên liên quan cũng cần được chú trọng và thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Nếu không tạo được sự liên kết, phối hợp trong nước, thì việc mở rộng hợp tác quốc tế cũng sẽ kém hiệu quả và tốn kém hơn. Hợp tác trong nước là nền tảng, hợp tác quốc tế là đòn bẩy – cả hai cần được phát triển song song để tiết kiệm chi phí, gia tăng hiệu quả, và phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển chung của hệ thống giáo dục đại học.

Trao đổi tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiền - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chia sẻ quan điểm thẳng thắn về việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục, đặc biệt là trong bối cảnh nhiều cơ sở giáo dục đang chuyển mình mạnh mẽ theo hướng chuyển đổi số.

_DSC0698.JPG
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiền - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chia sẻ quan điểm tại Hội thảo. Ảnh: Thúy Hiền.

Theo thầy Hiền, xét về chức năng, hiện nay có thể phân loại trí tuệ nhân tạo thành hai dạng cơ bản. Thứ nhất là trí tuệ nhân tạo dự đoán với khả năng phân tích dữ liệu để dự đoán hành vi, xu hướng phát triển của người dùng.

Thứ hai là trí tuệ nhân tạo tạo sinh, tiêu biểu như ChatGPT – hoạt động bằng cách tạo ra các câu trả lời giống con người dựa trên lượng dữ liệu khổng lồ mà nó đã được huấn luyện. Các câu trả lời của AI dạng này thực chất là “trung bình cộng” của các dữ liệu sẵn có, không đại diện cho sự sáng tạo hay xuất sắc thực thụ.

Chính đặc điểm này khiến AI tạo sinh tiềm ẩn nhiều nguy cơ và rủi ro trong giáo dục, đặc biệt là khi người dùng không có khả năng thẩm định, phản biện và phân tích thông tin. Một khi các nội dung sai lệch được tiếp tục tái sử dụng và lan truyền trở lại lên Internet, chúng sẽ tạo ra một vòng luẩn quẩn gây ô nhiễm tri thức trên không gian mạng.

Thực trạng hiện nay, cho thấy, AI có thể trả lời nghe một cách “thuận tai”, có vẻ hợp lý, nhưng thực tế lại là những thông tin thiếu kiểm chứng, thậm chí là tưởng tượng, dễ dẫn đến “ảo giác tri thức”. Vì vậy, người sử dụng, đặc biệt là sinh viên, học sinh cần được trang bị tri thức nền tảng và kỹ năng phản biện để không bị lệ thuộc hoặc đánh lừa bởi AI.

Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng nhấn mạnh về việc hãy dạy và học với trí tuệ nhân tạo, chứ không dạy và học bằng trí tuệ nhân tạo. Điều này có nghĩa rằng AI nên được xem như một công cụ hỗ trợ người học và người dạy, không phải là vật thay thế cho vai trò của người thầy trong giáo dục – một lĩnh vực vốn đòi hỏi tính nhân văn, sự tinh tế và cảm xúc, điều mà các công nghệ hiện nay vẫn chưa thể thay thế.

Thầy Hiền cũng bày tỏ sự lo ngại trước nhiều mô hình đào tạo hoàn toàn trực tuyến, phụ thuộc vào AI, đang được áp dụng tại một số nơi. Nếu không có định hướng và kiểm soát phù hợp, điều này có thể tạo ra những hệ lụy nghiêm trọng trong việc hình thành nhân cách, tư duy và năng lực của người học.

Các trường đại học phải là đối tượng ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu

Cũng tại Hội thảo, qua hình thức trực tuyến, Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã trình bày một số ý kiến về đổi mới quản trị đại học ở nước ta.

Theo đó, Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng đã nhấn mạnh về sự cần thiết phải phân biệt rõ giữa quản trị và quản lý điều hành cũng như việc không nên tồn tại cơ chế “xin – cho”; mỗi cấp nên tập trung vào đúng chức năng của mình.

Hơn nữa, cần xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân nhất quán với hệ thống giáo dục được liên thông, kế thừa và thống nhất từ mầm non đến đại học, lúc đó cao đẳng nên được xem là một phần của giáo dục đại học, không tách rời. Công tác phân luồng sau trung học cơ sở hướng học văn hóa hoặc học nghề cần được thực hiện hợp lý và khoa học.

Đặc biệt, tự chủ đại học phải là điều kiện tiên quyết. Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng cho rằng, đại học phải tự chủ mới là đại học thực sự, nếu không thì chỉ là “cấp học số 4”. Tự chủ không đồng nghĩa với tự túc; Nhà nước vẫn phải đảm bảo ngân sách theo Luật.

Không những vậy, đại học cần phải đi liền với nghiên cứu để sản xuất tri thức và nâng cao chất lượng đào tạo. Do đó, cần tổ chức cho sinh viên tham gia nghiên cứu cùng giảng viên để tiếp cận tri thức sâu sắc, rèn luyện phương pháp tư duy, phản biện; tích hợp hệ thống nghiên cứu và đào tạo, không nên tách rời; các trường đại học phải là đối tượng ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu, được khuyến khích tham gia tư vấn các đề án...

Tường San