Để nhân lực đạt mục tiêu của Nghị quyết 57, CSGDĐH phải đổi mới toàn diện

07/06/2025 06:40
Thúy Hiền

GDVN - Lãnh đạo nhiều CSGDĐH chỉ ra rằng những lĩnh vực “mũi nhọn” đang đối mặt không ít thách thức trong việc phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học.

Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu, việc phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số được xem là chìa khóa để bứt phá. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đặt mục tiêu đến năm 2030, phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo.

Phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch, kỹ thuật và công nghệ then chốt; đẩy mạnh hợp tác với các đại học uy tín của nước ngoài; đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, hiện đại hoá phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo.

Đây được xem là bước phát triển đột phá đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ tại Việt Nam.

Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao ở lĩnh vực “mũi nhọn”

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng cho biết, việc phát triển đội ngũ giảng viên và nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ chip bán dẫn, vi mạch và các công nghệ then chốt hiện đang gặp nhiều khó khăn mang tính hệ thống và lâu dài.

Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao hiện thiếu hụt nghiêm trọng, đặc biệt là những người có trình độ tiến sĩ được đào tạo bài bản ở các quốc gia có nền công nghiệp bán dẫn phát triển; trong khi đó, nhiều chuyên gia giỏi lại lựa chọn làm việc tại doanh nghiệp hoặc ra nước ngoài do môi trường làm việc và thu nhập hấp dẫn hơn.

Thứ hai, công tác đào tạo và tái đào tạo giảng viên còn hạn chế trong khi các chương trình đào tạo chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ, cơ hội bồi dưỡng chuyên sâu và cơ chế tài trợ dài hạn để giảng viên được tiếp cận với công nghệ mới, mô hình công nghiệp hiện đại còn ít.

Thứ ba, môi trường nghiên cứu và thực hành ở nhiều trường đại học vẫn còn yếu, thiếu phòng thí nghiệm hiện đại, phần mềm bản quyền và thiết bị chuyên dụng. Trong khi đó, khả năng tiếp cận thiết bị thực tế từ doanh nghiệp cũng hạn chế nên việc gắn kết giữa lý thuyết, thực hành và nghiên cứu ứng dụng gặp nhiều trở ngại.

Thứ tư, chính sách thu hút và đãi ngộ chưa đủ sức cạnh tranh để “giữ chân” người giỏi và thu hút chuyên gia nước ngoài, Việt kiều có trình độ cao tham gia giảng dạy, chuyển giao tri thức.

Cuối cùng, liên kết giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp vẫn lỏng lẻo, thiếu chiều sâu, chưa tạo được các chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn. Điều này khiến giảng viên khó cập nhật yêu cầu từ ngành công nghiệp, dẫn đến nội dung giảng dạy chậm thích ứng với thực tế.

Những khó khăn nêu trên đòi hỏi một chiến lược tổng thể như đẩy mạnh đầu tư cho đào tạo và bồi dưỡng; cải thiện chính sách đãi ngộ; mở rộng hợp tác quốc tế và thúc đẩy liên kết thực chất với doanh nghiệp. Mục tiêu là xây dựng đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu có năng lực, đủ sức dẫn dắt đổi mới trong các lĩnh vực công nghệ then chốt của đất nước.

pgsts-ng-vu-quynh.png
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng. Ảnh: NVCC.

Hiện nay, Trường Đại học Lạc Hồng đang đào tạo 9 ngành thuộc lĩnh vực kỹ thuật - công nghệ then chốt, gồm: Công nghệ kỹ thuật điều khiển và tự động hóa, Công nghệ kỹ thuật cơ - điện tử, Công nghệ kỹ thuật điện - điện tử (chuyên ngành Công nghệ kỹ thuật vi mạch bán dẫn), Công nghệ kỹ thuật ô tô, Công nghệ kỹ thuật công trình xây dựng, Công nghệ kỹ thuật cơ khí, Công nghệ thông tin, Trí tuệ nhân tạo và Dược học.

“Đội ngũ giảng viên ở các ngành này tại trường bao gồm 3 giáo sư, 14 phó giáo sư và 88 tiến sĩ, chiếm tỷ lệ 39,28% giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên tại trường. Đây là một con số cao trong bối cảnh giáo dục đại học hiện nay, cho thấy hiệu quả từ chiến lược thu hút và phát triển nhân lực chất lượng cao của nhà trường.

Ngoài ra, Trường Đại học Lạc Hồng đã và đang triển khai nhiều chính sách mạnh mẽ nhằm thu hút giảng viên có học hàm, học vị cao cũng như hỗ trợ đội ngũ hiện hữu học tiến sĩ.

Cụ thể, mỗi giảng viên học tiến sĩ được hỗ trợ 120 triệu đồng chia làm ba đợt, kèm khoản thưởng 20 triệu đồng nếu hoàn thành chương trình trong vòng ba năm; trong thời gian học vẫn hưởng 100% lương, được giảm 50% định mức giảng dạy, nghỉ 2 ngày làm việc mỗi tuần để học tập. Nếu học tại Trường Đại học Lạc Hồng, giảng viên được giảm học phí, lệ phí thi tiếng Anh và được ưu tiên bố trí công việc, xét nâng lương sau tốt nghiệp.

Bên cạnh đó, trường chú trọng đầu tư vào môi trường làm việc dân chủ, giảng viên có tiếng nói trong các quyết định chuyên môn và không ngừng cải thiện phúc lợi thông qua các hoạt động chăm lo đời sống vật chất, tinh thần.

Về nghiên cứu - chuyển giao công nghệ, giảng viên được hưởng phần lớn lợi nhuận từ hợp đồng chuyển giao và nhận thêm thưởng từ nhà trường. Đồng thời, trường tích cực tạo điều kiện để giảng viên hợp tác quốc tế, tham dự các chương trình trao đổi học thuật tại Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Phần Lan…

Từ các chính sách đãi ngộ nói trên, Trường Đại học Lạc Hồng không chỉ xây dựng được đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, mà còn tạo ra môi trường học thuật chuyên nghiệp, gắn bó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và uy tín của nhà trường trong lĩnh vực công nghệ then chốt và khoa học hiện đại”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh cho hay.

Còn theo Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, đội ngũ giảng viên trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ then chốt được nhà trường chú trọng phát triển.

ts-quach-thanh-hai.png
Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.

Trường sở hữu đội ngũ giảng viên trình độ cao, gồm nhiều thạc sĩ, tiến sĩ có kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu và công nghệ thông tin. Song song với đó, nhà trường đẩy mạnh nâng cao chất lượng đội ngũ thông qua các chương trình đào tạo, nghiên cứu và hợp tác quốc tế, đồng thời tích cực mời gọi chuyên gia từ các ngành công nghệ then chốt tham gia giảng dạy.

Tuy nhiên, ở những lĩnh vực công nghệ cao mang tính mũi nhọn và nền tảng, việc phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học vẫn đối mặt không ít thách thức.

Một là số lượng giảng viên và nhà khoa học có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực này vẫn còn hạn chế nên rất khó tuyển dụng. Việc đào tạo và thu hút đội ngũ có chuyên môn ở lĩnh vực công nghệ cao cũng gặp nhiều thách thức do yêu cầu cao về trình độ và kinh nghiệm.

Hai là vấn đề về môi trường làm việc, cơ sở vật chất và nguồn lực tài chính. Để thu hút giảng viên, nhà khoa học chất lượng cao, các trường cần có hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, trang thiết bị tiên tiến, nhất là trong bối cảnh vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Tuy nhiên, nhiều cơ sở giáo dục hiện vẫn chưa đủ tiềm lực tài chính để đầu tư đồng bộ cho các điều kiện giảng dạy và nghiên cứu này.

Ba là vấn đề hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ. Đối với đội ngũ giảng viên, nhà khoa học chuyên sâu trong các lĩnh vực công nghệ cao, việc liên kết với các trường đại học và viện nghiên cứu quốc tế đóng vai trò then chốt trong nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp không ít rào cản từ chính sách, thủ tục hành chính và hạn chế trong việc tiếp cận công nghệ tiên tiến.

Bốn là yêu cầu cập nhật chương trình đào tạo cho phù hợp với xu hướng mới. Nhiều chương trình hiện vẫn chưa đạt chuẩn quốc tế khiến giảng viên và sinh viên khó tiếp cận các kiến thức, công nghệ hiện đại và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của thị trường.

hcmute.png
Ảnh minh họa: Website Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.

“Hiện nay, tổng chi cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam vẫn ở mức rất khiêm tốn, chỉ đạt khoảng 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra là 2%. Nguồn ngân sách lại phân bổ dàn trải, thiếu trọng tâm và chưa gắn với cơ chế đặt hàng hay nhu cầu thực tế từ thị trường. Cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu, đặc biệt là các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghiên cứu hiện đại.

Ở khu vực doanh nghiệp, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển cũng còn rất hạn chế. Tổng kinh phí chi cho R&D (Research and Development) mới đạt khoảng 20.000 tỷ đồng/năm. Nhiều doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng việc hợp tác với trường đại học do thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả, ưu đãi thuế và các chính sách khuyến khích cụ thể”, Tiến sĩ Quách Thanh Hải cho hay.

Những thách thức trên đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ và đầu tư mạnh mẽ từ Chính phủ, doanh nghiệp cùng các cơ sở giáo dục nhằm phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học đủ năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức và sự phát triển công nghệ.

Đổi mới chương trình đào tạo là xu hướng tất yếu

Trong bối cảnh nhiều rào cản về tài chính, cơ sở vật chất, chính sách hợp tác và chất lượng đội ngũ giảng dạy vẫn còn hiện hữu, yêu cầu nâng cao năng lực giáo dục đại học, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Để rút ngắn khoảng cách với các trường đại học tiên tiến trên thế giới, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Danh Chính - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh, các trường đại học Việt Nam cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có bốn trụ cột mang tính nền tảng và chiến lược.

Thứ nhất, chương trình đào tạo cần được cập nhật và thiết kế theo hướng hiện đại, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật và khoa học, những ngành đang thay đổi nhanh chóng dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0. Các học phần nên tích hợp kiến thức mới về trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu và các xu hướng toàn cầu. Bên cạnh đó, việc phát triển các chương trình đào tạo liên ngành giữa công nghệ - dữ liệu - xã hội sẽ giúp sinh viên hiểu cách ứng dụng AI vào từng lĩnh vực cụ thể, nâng cao tính thực tiễn và giá trị của giáo dục đại học.

Thứ hai, cần phát triển mạnh mẽ các công cụ học tập dựa trên trí tuệ nhân tạo. Hệ thống học thích ứng (adaptive learning), Chatbot hỗ trợ học tập và nền tảng học trực tuyến thông minh sẽ giúp cá nhân hóa quá trình học, tăng tính tương tác và hiệu quả giảng dạy. Việc ứng dụng AI trong đánh giá sinh viên không chỉ giảm tải cho giảng viên mà còn cung cấp phản hồi nhanh, chính xác, hỗ trợ sinh viên tiến bộ rõ rệt trong quá trình học tập.

Thứ ba, không thể thiếu chiến lược hợp tác quốc tế thực chất và sâu rộng. Các trường đại học Việt Nam cần chủ động kết nối với đại học, viện nghiên cứu nước ngoài để trao đổi giảng viên, sinh viên, cập nhật phương pháp giảng dạy tiên tiến và tiếp cận tri thức toàn cầu. Tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên và giảng viên tham gia chương trình trao đổi sẽ góp phần hình thành tư duy toàn cầu, khả năng thích ứng và kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Cuối cùng là đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng nghiên cứu và gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Một môi trường học tập, nghiên cứu hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao và AI là yếu tố không thể thiếu để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Các trường nên khuyến khích sinh viên thử nghiệm, sáng tạo với công nghệ mới, đồng thời tăng cường kết nối với doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu. Việc đưa sinh viên tiếp cận sớm với thực tiễn thông qua thực tập, dự án thực tế sẽ giúp rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu nhân lực của thị trường.

lhu.png
Sinh viên Trường Đại học Lạc Hồng. Ảnh: Website nhà trường.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh, việc đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế và hiện đại hóa phương thức giảng dạy không còn là lựa chọn mà là điều kiện sống còn nếu các trường đại học Việt Nam muốn rút ngắn khoảng cách với các trường tiên tiến trên thế giới.

“Trước hết, cần thiết kế chương trình đào tạo theo hướng mở, linh hoạt và liên tục cập nhật các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn (big data), thực tế ảo... không chỉ giới hạn ở khối ngành công nghệ mà tích hợp xuyên suốt trong mọi lĩnh vực đào tạo. Việc chia nhỏ môn học thành các học phần ngắn không chỉ giúp sinh viên dễ dàng cá nhân hóa lộ trình học tập, duy trì việc học suốt đời mà còn nâng cao khả năng thích ứng với tốc độ thay đổi nhanh chóng của tri thức.

Song song với đó, đội ngũ giảng viên cần được đào tạo và tái đào tạo về công nghệ giáo dục (EdTech), trí tuệ nhân tạo, phương pháp học kết hợp (blended learning), kỹ năng thiết kế bài giảng ứng dụng công nghệ và cá nhân hóa trải nghiệm học tập bằng công cụ số.

Hạ tầng số cũng cần được đầu tư một cách đồng bộ và bài bản. Các trường đại học cần xây dựng hệ sinh thái học tập thông minh, ứng dụng hệ thống quản lý học tập (LMS) tích hợp trí tuệ nhân tạo để phân tích hành vi học tập, gợi ý tài nguyên phù hợp và đánh giá năng lực sinh viên toàn diện hơn so với cách thi cử truyền thống.

Đồng thời, mô hình quản trị nhà trường cũng cần được chuyển đổi theo hướng tinh gọn, linh hoạt, ra quyết định dựa trên phân tích dữ liệu từ khâu tuyển sinh, đào tạo đến kết nối việc làm.

Đặc biệt, việc tăng cường hợp tác với doanh nghiệp là yếu tố then chốt để đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, xây dựng các trung tâm trí tuệ nhân tạo ngay trong trường, đồng thời triển khai các chương trình liên kết quốc tế theo hướng thực chất và bền vững.

Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là việc trang bị cho sinh viên tư duy toàn cầu, kỹ năng mềm và khả năng thích ứng với công nghệ mới. Ngoài việc tiếp thu kiến thức, sinh viên cần được rèn luyện tư duy sáng tạo, làm việc hiệu quả với AI, sử dụng thành thạo tiếng Anh và giao tiếp trong môi trường đa văn hóa.

Nếu giáo dục đại học chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức, chúng ta sẽ sớm tụt lại phía sau. Nhưng nếu mạnh dạn chuyển mình thành trung tâm phát triển năng lực toàn diện, nơi hội tụ tri thức, công nghệ và kỹ năng toàn cầu thì giáo dục đại học Việt Nam hoàn toàn có cơ hội bứt phá, vươn tầm và hội nhập sâu rộng”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh nhận định.

Bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Quách Thanh Hải đặc biệt nhấn mạnh việc các trường đại học Việt Nam cần chủ động hội nhập và trở thành một phần của cộng đồng giáo dục đại học quốc tế. Điều này đòi hỏi các trường phải tuân thủ những tiêu chuẩn chung, "luật chơi" toàn cầu và có tầm nhìn chiến lược dài hạn.

Quá trình kiểm định chất lượng theo chuẩn quốc tế không nên được xem là đích đến, mà là một hành trình cải tiến liên tục để nâng cao uy tín và chất lượng đào tạo. Song song đó, các trường cần tích cực mở rộng hợp tác quốc tế thông qua các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên, nghiên cứu chung cũng như triển khai các dự án liên kết đào tạo.

Việc tham gia sâu vào mạng lưới đại học toàn cầu không chỉ giúp nâng cao năng lực đội ngũ và cập nhật tri thức mới mà còn tạo cơ hội để sinh viên Việt Nam tiếp cận với một nền giáo dục tiên tiến, đa dạng và hội nhập.

Xây dựng các trường đại học thành trung tâm nghiên cứu mạnh

Để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó nhấn mạnh vai trò then chốt của giáo dục đại học đối với sự nghiệp đổi mới sáng tạo và phát triển đất nước, cần xem đại học không chỉ là nơi truyền đạt tri thức mà còn là trung tâm nghiên cứu, sáng tạo và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh, muốn các trường đại học thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu mạnh, có năng lực chuyển giao công nghệ và tạo ra giá trị thực tiễn, cần một cơ chế tài chính đột phá, kết hợp hài hòa giữa tự chủ, đầu tư công và đồng hành từ doanh nghiệp.

Trước hết, cần cho phép các trường lập quỹ nghiên cứu riêng, được toàn quyền sử dụng và tái đầu tư nguồn thu từ chuyển giao công nghệ mà không bị ràng buộc bởi niên độ ngân sách. Việc áp dụng cơ chế khoán chi theo sản phẩm đầu ra cũng sẽ giúp giảm thủ tục hành chính, tăng tính linh hoạt cho các nhóm nghiên cứu.

Bên cạnh đó, Nhà nước nên miễn hoặc giảm thuế thu nhập đối với doanh thu từ nghiên cứu, đồng thời cho phép doanh nghiệp đầu tư vào trường đại học được khấu trừ chi phí khỏi thu nhập chịu thuế, tạo động lực tài chính rõ ràng để thúc đẩy hợp tác.

Về phía đầu tư công, cần thành lập quỹ đổi mới sáng tạo đại học cấp Quốc gia để hỗ trợ các đề tài có tiềm năng thương mại hóa cao, ưu tiên các mô hình liên kết giữa 3 bên là trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.

Đồng thời, Nhà nước cần đầu tư xây dựng hạ tầng nghiên cứu hiện đại như phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm mô phỏng, thiết kế thử nghiệm gắn với công nghiệp 4.0, và triển khai chương trình “giảng viên nghiên cứu toàn thời gian” nhằm phát triển lực lượng nghiên cứu chuyên sâu, có chiến lược.

Với khối doanh nghiệp, cần thúc đẩy mô hình đồng tài trợ nghiên cứu, cho phép doanh nghiệp tiếp cận sớm kết quả và cùng vận hành “trạm nghiên cứu ứng dụng” đặt tại trường, nơi giảng viên, sinh viên trực tiếp triển khai các dự án thực tế. Việc tài trợ giải thưởng cho các công trình có giá trị ứng dụng cao cũng sẽ khơi dậy và lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo trong nhà trường. Đồng thời, khuyến khích các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước ưu tiên đặt hàng công nghệ trong nước thay vì nhập khẩu.

Khi hội tụ đủ các điều kiện trên, trường đại học sẽ vượt ra khỏi vai trò truyền thống, trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo - nơi ý tưởng được ươm mầm thành sản phẩm, công nghệ được chuyển hóa thành giá trị thực tiễn, đóng góp thiết thực vào sự phát triển của đất nước.

Thúy Hiền