Vì sao số người học sinh học, công nghệ sinh học, y sinh còn thấp?

09/06/2025 06:40
Mạnh Dũng

GDVN - Số lượng người theo học các lĩnh vực về sinh học hiện còn thấp, chủ yếu do chưa được truyền thông đúng mức và chưa có các chính sách khuyến khích người học.

Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long ký Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045.

Một trong những điểm đáng chú ý của đề án là mục tiêu cụ thể đến năm 2030 tăng nhanh quy mô đào tạo trình độ cao khối ngành STEM, trong đó, số người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ.

Số lượng người học còn ít so với nhu cầu nhân lực thực tiễn của xã hội

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang cho biết, mặc dù các lĩnh vực về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh có vai trò chiến lược trong phát triển bền vững, chăm sóc sức khỏe và đổi mới sáng tạo, nhưng số lượng sinh viên theo học những ngành này hiện vẫn còn ít so với nhu cầu của xã hội Việt Nam. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, những lĩnh vực này chưa được truyền thông đúng và đủ lớn về vai trò, đặc biệt là vai trò đối với quá trình phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Thứ hai, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp những ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh tốt nghiệp ra trường làm đúng chuyên môn chưa cao do chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa các nhà tuyển dụng, sinh viên và trường học.

Thứ ba, trang thiết bị phục vụ cho học tập và nghiên cứu ở những ngành này chưa được đầu tư đúng với nhu cầu và xu thế phát triển của xã hội, dẫn tới những hạn chế trong nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm được sản xuất từ các nước có nền khoa học công nghệ hiện đại.

Thứ tư, chưa có các chính sách khuyến khích, thu hút người học như giảm học phí tương tự như những ngành sư phạm, quân đội, công an.

thay-nguyen-trung-cang.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang. Ảnh: NVCC.

Từ thực tiễn đó, theo thầy Cang, để đạt được mục tiêu số lượng người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ, cần có các giải pháp cụ thể, đảm bảo tính bền vững.

Theo đó, cần truyền thông sâu, rộng về tầm quan trọng của các ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh với sự phát triển của đất nước. Chẳng hạn như chọn nhà khoa học trẻ, có ngoại hình, có kỹ năng thuyết phục đến gặp gỡ các học sinh lớp 12 trong buổi học hướng nghiệp để các em hiểu rõ tiềm năng các ngành học này. Từ đó, học sinh và phụ huynh có thể hiểu rõ về cơ hội việc làm sau khi ra trường và sự hấp dẫn của nghề nghiệp.

Cùng với đó, sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà tuyển dụng, các doanh nghiệp chuyên môn với trường học có đào tạo các ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh cần được chú trọng, nhằm đảm bảo sinh viên tốt nghiệp những ngành này ra trường có cơ hội làm việc đúng ngành học.

Mặt khác, đầu tư trang thiết bị hiện đại cho các cơ sở đào tạo để đủ phương tiện thực hiện những ý tưởng khoa học mới. Từ đó, tạo tiền đề để hình thành những sản phẩm mới có chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Chí Hiểu - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên cũng cho rằng, hiện nay, số lượng người học các ngành chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh tại Việt Nam còn khiêm tốn so với tiềm năng phát triển cũng như nhu cầu thực tiễn của xã hội. Mặc dù đây là những lĩnh vực được đánh giá rất cao về tính ứng dụng trong y tế, nông nghiệp công nghệ cao, môi trường và công nghiệp thực phẩm, nhưng tỷ lệ thí sinh đăng ký học vẫn ở mức thấp. Trong những năm gần đây, tỷ lệ tuyển sinh đối với ngành công nghệ sinh học của nhà trường chỉ đạt từ 20-30% chỉ tiêu.

Theo thầy Hiểu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Trước hết, nhận thức về triển vọng nghề nghiệp của các ngành này của xã hội chưa đầy đủ.

Cùng với đó, thời gian đào tạo của ngành dài, với yêu cầu kiến thức chuyên sâu về khoa học tự nhiên cũng khiến nhiều thí sinh e ngại về độ khó.

Thêm vào đó, sự cạnh tranh tuyển sinh từ các ngành “hot” như: kinh tế, công nghệ thông tin, y khoa,... cũng là một yếu tố đáng kể ảnh hưởng đến lựa chọn ngành học của học sinh.

Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho cả hệ thống giáo dục và các bên liên quan trong việc định vị lại giá trị, vai trò, cũng như truyền thông hiệu quả hơn về cơ hội và đóng góp của các lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, y sinh đối với sự phát triển bền vững đất nước.

Do đó, để đạt được mục tiêu số lượng 5 nghìn tốt nghiệp/năm các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh, thầy Hiểu cho rằng, cần đồng bộ nhiều điều kiện, giải pháp mang tính hệ thống. Trước hết, chính sách quốc gia về phát triển nguồn nhân lực trong các lĩnh vực sinh học và công nghệ cao cần rõ ràng, nhất quán và lâu dài.

Song song đó, cần đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho các cơ sở đào tạo về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm và hạ tầng nghiên cứu, để tạo điều kiện học tập và thực hành tốt nhất cho người học.

Bên cạnh đó, chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ học bổng, tín dụng ưu đãi, hỗ trợ nghiên cứu và đảm bảo đầu ra cũng cần được mở rộng, nhất là ở bậc sau đại học.

Ngoài ra, sự kết nối chặt chẽ giữa nhà trường – doanh nghiệp – viện nghiên cứu nhằm tạo ra môi trường học tập gắn với thực tiễn, hướng tới đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp cũng cần được chú trọng. Khi người học thấy được con đường nghề nghiệp rõ ràng, tiềm năng thu nhập và giá trị xã hội mà mình có thể tạo ra, họ sẽ chủ động chọn lựa và gắn bó với ngành nghề.

thay-nguyen-chi-hieu-dh-nong-lam-thai-nguyen.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Chí Hiểu – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: website nhà trường.

Thầy Hiểu cũng nhấn mạnh, các trường học cần đẩy mạnh triển khai và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo tài năng các ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh. Đồng thời, để các trường có động lực phát triển các chương trình đào tạo tài năng, cần có cơ chế khuyến khích từ nhà nước như: cấp kinh phí đặc thù để xây dựng chương trình; tuyển chọn giảng viên tinh hoa, mời chuyên gia quốc tế giảng dạy; hỗ trợ học bổng và điều kiện học tập đặc biệt cho sinh viên tài năng.

Đối với chương trình đào tạo tài năng các lĩnh vực này, cần có khác biệt ở nhiều điểm so với chương trình đại trà. Trong đó, đầu vào của ngành học cần tuyển chọn kỹ lưỡng hơn, nội dung chương trình được thiết kế chuyên sâu, có tính cập nhật cao và định hướng nghiên cứu mạnh mẽ. Sinh viên học chương trình này được học nhóm nhỏ, thực hành nhiều trong phòng thí nghiệm hiện đại, được hướng dẫn bởi đội ngũ giảng viên có trình độ cao và có cơ hội tham gia các đề tài nghiên cứu, hội nghị khoa học quốc tế. Đây chính là nguồn lực đầu vào quan trọng để đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh chất lượng cao cho tương lai.

Phải có chiến lược tổng thể để phát triển nguồn nhân lực sinh học có chuyên môn, chất lượng cao

Theo quan điểm của thầy Nguyễn Chí Hiểu, để đạt ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ ở các lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, y sinh thì việc thu hút người học các lĩnh vực này ở bậc sau đại học là điều quan trọng và phải có chiến lược tổng thể từ cấp quốc gia đến cơ sở đào tạo. Theo đó, cần xác định rõ các ngành học này mang tính chiến lược trong phát triển kinh tế tri thức, từ đó có chính sách học bổng toàn phần hoặc bán phần, miễn giảm học phí và hỗ trợ sinh hoạt phí cho người học.

Hơn nữa, cần tăng cường truyền thông về cơ hội nghề nghiệp, mức thu nhập và tiềm năng nghiên cứu, khởi nghiệp trong các ngành này. Khi người học thấy rõ con đường phát triển nghề nghiệp sau khi hoàn thành thạc sĩ hoặc tiến sĩ, họ sẽ chủ động tham gia học tập và nghiên cứu.

Ngoài ra, việc phát triển các chương trình đào tạo gắn với thực tiễn, hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp, viện nghiên cứu, để người học có môi trường phát triển năng lực, tạo sản phẩm nghiên cứu ứng dụng được cũng cần được chú trọng, từ đó tăng động lực học tập và cống hiến của người học.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh, số lượng người học theo học các lĩnh vực chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh còn thấp là do các ngành này đòi hỏi kiến thức nền tảng vững chắc, ví dụ như kiến thức về Toán học, Sinh học, Hóa học ở bậc phổ thông và đòi hỏi kỹ năng thực hành cao, dẫn tới nhiều học sinh e ngại về độ khó của chương trình học. Ngoài ra, cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên chất lượng cao ở những lĩnh vực này vẫn chưa đồng đều ở các địa phương.

thay-hoan-cong-thuong-hcm-199-9159.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website trường

"Hiện cơ hội nghề nghiệp và thu nhập các lĩnh vực chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh chưa quá rõ ràng. Mặc dù được đánh giá có triển vọng lớn, nhưng tại Việt Nam, nhiều sinh viên và phụ huynh vẫn lo ngại về cơ hội việc làm và mức thu nhập sau tốt nghiệp. Ví dụ, theo thống kê, trong lĩnh vực y tế gần 60% cán bộ y tế cho biết lương không thỏa đáng và khoảng 24% không hài lòng với chế độ phụ cấp. Điều này làm giảm sức hút của các ngành như công nghệ sinh học, y sinh đối với học sinh, sinh viên giỏi.

Cùng với đó, hiện vẫn tồn tại nhiều hạn chế về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên. Mặc dù đã đầu tư phòng thí nghiệm hiện đại và hợp tác doanh nghiệp, nhưng nhiều cơ sở đào tạo còn thiếu cơ sở vật chất tiên tiến và đội ngũ giảng viên có trình độ cao.

Thêm vào đó, tài liệu chuyên sâu bằng tiếng Việt còn hạn chế, buộc sinh viên phải có trình độ ngoại ngữ tốt để tiếp cận tài liệu quốc tế.

Mặc khác, chính sách thu hút nhân tài chưa đủ mạnh, chưa có sức hấp dẫn cho người học để cạnh tranh với các ngành khác như công nghệ thông tin hay kinh tế. Thí sinh giỏi thường ưu tiên các ngành có triển vọng tài chính rõ ràng hơn hoặc cơ hội du học. Việc thu hút nhân tài từ nước ngoài cũng gặp khó khăn do chế độ đãi ngộ và môi trường nghiên cứu trong nước chưa đủ cạnh tranh", thầy Hoàn nêu quan điểm.

Cũng theo thầy Hoàn, để đạt mục tiêu như đề án thì việc phát triển, mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống đào tạo cần được đặt lên hàng đầu. Đồng thời, cần triển khai một loạt giải pháp đồng bộ, từ nhận thức đến cơ hội nghề nghiệp, kết hợp giữa chính sách hỗ trợ từ truyền thông đến định hướng nghề nghiệp rõ ràng và nâng cao chất lượng đào tạo.

Trong đó, cần tăng số lượng cơ sở đào tạo có năng lực đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh, gồm các đại học, học viện, viện nghiên cứu,... Đồng thời, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tích hợp nghiên cứu, ứng dụng, cập nhật xu thế mới như synthetic biology, AI trong y sinh, genomics và đầu tư vào nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên.

Cùng với đó, cần có cơ chế tuyển dụng chuyên gia trong và ngoài nước, đào tạo nâng cao cho giảng viên hiện hữu. Phát triển đào tạo trình độ cao, mở rộng chỉ tiêu thạc sĩ, tiến sĩ và đẩy mạnh mô hình “đào tạo theo dự án nghiên cứu” ở bậc cao học.

Mặt khác, trường đại học và doanh nghiệp phải có sự phối hợp chặt chẽ, triển khai chương trình học gắn với thực tập và các đề tài thực tế. Khuyến khích doanh nghiệp đặt hàng đào tạo với đề án nhân lực riêng và học bổng kèm cam kết việc làm.

Ngoài ra, việc có sự tài trợ và đặt hàng nghiên cứu khoa học sẽ giúp học viên, nghiên cứu sinh có môi trường tốt để phát triển năng lực nghiên cứu khoa học.

Đặc biệt, cần đầu tư phòng thí nghiệm, thiết bị hiện đại, đạt chuẩn quốc tế để phục vụ nghiên cứu, đào tạo thực hành và phát triển hệ thống dữ liệu sinh học dùng chung cho đào tạo, nghiên cứu khoa học.

Sinh viên ngành Công nghệ sinh học, Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh thực hành tại phòng thí nghiệm. Ảnh website trường

Sinh viên ngành Công nghệ sinh học, Trường Đại học Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh thực hành tại phòng thí nghiệm. Ảnh website trường

Chia sẻ về kế hoạch của đơn vị nhằm tăng số lượng người học cũng như đẩy mạnh chất lượng đào tạo chuyên sâu thời gian tới, thầy Hoàn cho biết, nhà trường đã tăng chỉ tiêu đào tạo của ngành công nghệ sinh học lên khoảng 250 - 300 sinh viên/năm và tăng chất lượng tuyển sinh với mức điểm trúng tuyển từ 22 điểm - 24 điểm.

Về chương trình đào tạo ngành công nghệ sinh học, trường chủ động cập nhật và đổi mới chương trình thường xuyên, áp dụng các chương trình liên ngành, đưa các học phần công nghệ mới như CRISPR, lab automation, công nghệ tế bào gốc, ...

Cùng với đó, trường cũng tăng thời lượng và chất lượng thực hành, thực tế cho sinh viên. Tăng cường các học phần thí nghiệm, dự án nghiên cứu, seminar chuyên sâu. Đầu tư phòng thí nghiệm hiện đại, với mức đầu tư hàng năm dao động từ 20 - 30 tỷ đồng cho khoa công nghệ sinh học. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp lớn, nhỏ để sinh viên có cơ hội được thực tập, kiến tập tại cơ sở thực tế.

Đặc biệt, việc khuyến khích sinh viên nghiên cứu và khởi nghiệp được trường chú trọng. Trong đó, nhà trường tổ chức cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp, ý tưởng sáng tạo cho các đề tài nghiên cứu của sinh viên. Sau đó, đưa các ý tưởng khởi nghiệp ra vườn ươm ý tưởng và gọi vốn, hỗ trợ vốn cho các dự án nghiên cứu ứng dụng.

Mạnh Dũng