Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với hàng loạt thách thức như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, khan hiếm tài nguyên và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng, các ngành khoa học sự sống bao gồm sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong việc giải quyết những vấn đề cốt lõi của nhân loại.
Phát triển nhóm ngành này sẽ tạo ra hướng đi đột phá trong điều trị bệnh tật, sản xuất thực phẩm, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng cuộc sống. Trong tương lai, với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, công nghệ gen và vật liệu tiên tiến, ngành khoa học sự sống hứa hẹn sẽ trở thành trụ cột cho sự phát triển bền vững và đổi mới sáng tạo trên toàn cầu.
Phát triển nhân lực ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh là yêu cầu cấp thiết
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Thanh Hương – Trưởng khoa, Khoa Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Dược Hà Nội đánh giá, ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đang là lĩnh vực mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Từ nông nghiệp, lâm nghiệp, môi trường, các thành tựu của sinh học đã mang lại nhiều giải pháp hiệu quả, góp phần hướng tới mục tiêu phát triển xanh và bền vững.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, y học thế giới ghi nhận nhiều xu hướng mới nhằm nâng cao hiệu quả điều trị, đặc biệt với các bệnh nan y. Ví dụ như việc sử dụng các thuốc sinh học đặc hiệu, ít tác dụng phụ; xét nghiệm gen để lựa chọn phác đồ điều trị cá thể hóa; ứng dụng trị liệu gen và tế bào trong lâm sàng. Những tiến bộ này đòi hỏi sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ sinh học, y sinh, cùng đội ngũ nhân lực có kiến thức vững về khoa học sự sống và khoa học sức khỏe.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, nhiều nghị quyết được ban hành nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh như: Nghị quyết 36-NQ/TW về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới, Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Gần đây nhất, Quyết định số 1002/QĐ-TTg đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030 cho công tác đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Thanh Hương, hiện nay, nguồn nhân lực chuyên sâu ở bậc sau đại học trong các lĩnh vực công nghệ sinh học tiên tiến tại Việt Nam vẫn còn tương đối hạn chế. Trình độ chuyên môn và khả năng ứng dụng thực tiễn của đội ngũ này chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao từ thị trường lao động.
Công tác phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể:
Thứ nhất, việc đào tạo, thu hút đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn sâu để giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu là bài toán nan giải, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo và nghiên cứu.
Thứ hai, các hoạt động thực nghiệm trong lĩnh vực công nghệ sinh học, y sinh đòi hỏi trang thiết bị hiện đại, đồng bộ. Tuy nhiên, nhiều trường đại học và viện nghiên cứu hiện chưa đủ cơ sở hạ tầng để đáp ứng yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu chuyên sâu.
Thứ ba, nguồn tài chính cho lĩnh vực này còn hạn chế. Nghiên cứu trong ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh cần chi phí lớn cho nguyên vật liệu và trang thiết bị với tiêu chuẩn cao. Trong khi đó, mức đầu tư vào nghiên cứu và phát triển còn khiêm tốn, chưa đủ tạo động lực cho các nhà khoa học, sinh viên và nghiên cứu sinh theo đuổi lâu dài.
Thứ tư, việc kết nối giữa các cơ sở đào tạo với doanh nghiệp và thị trường lao động chưa chặt chẽ, dẫn đến các kết quả/sản phẩm nghiên cứu ít có khả năng ứng dụng vào thực tiễn và hạn chế cơ hội việc làm cho người học sau khi tốt nghiệp.
Trước thực trạng trên, việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học và y sinh trở thành yêu cầu cấp thiết.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Thanh Hương, khi Việt Nam đạt được mục tiêu đào tạo 5 nghìn người tốt nghiệp mỗi năm từ các chương trình chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh, với ít nhất 20% trong số đó có bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ vào năm 2030, ngành công nghệ sinh học và y sinh học sẽ có những thuận lợi đáng kể.
Trước tiên, việc tăng số lượng và chất lượng đội ngũ nhân lực tốt nghiệp từ các chương trình chuyên sâu sẽ góp phần hình thành nguồn nhân lực trình độ cao, đủ năng lực nghiên cứu, ứng dụng và tiếp nhận chuyển giao công nghệ sinh học hiện đại trong nhiều lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, môi trường…
Bên cạnh đó, điều này góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các công nghệ sinh học tiên tiến.
Với đội ngũ có trình độ chuyên sâu, nước ta hoàn toàn có thể cạnh tranh trong các dự án nghiên cứu quốc tế, thu hút đầu tư và hợp tác nước ngoài. Nguồn nhân lực này sẽ hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp sinh học, từ sản xuất dược phẩm, vaccine đến các công nghệ y sinh, góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, phát triển công nghệ sinh học của khu vực.
Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ sinh học sẽ mở rộng cơ hội việc làm ở nhiều ngành nghề như công nghiệp, y tế, nông nghiệp, môi trường, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Thị Thu Thủy - Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Mở Hà Nội cho hay: “Hiện nay, số lượng sinh viên theo học các lĩnh vực chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh ở Việt Nam, đặc biệt ở bậc sau đại học vẫn còn khiêm tốn so với các ngành như công nghệ thông tin, kỹ thuật hoặc kinh doanh.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự quan tâm đến công nghệ sinh học, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm, đang có dấu hiệu gia tăng. Tại Viện Công nghệ sinh học và Công nghệ thực phẩm, tỷ lệ sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp đạt trên 90% với nhiều cơ hội nhận học bổng quốc tế. Tuy nhiên, quy mô đào tạo vẫn còn hạn chế”.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Thị Thu Thủy, có nhiều nguyên nhân khiến lĩnh vực công nghệ sinh học chưa thực sự thu hút được các thí sinh giỏi. Trước hết, do xã hội nhận thức chưa đầy đủ về cơ hội nghề nghiệp lĩnh vực này. Nhiều học sinh và phụ huynh chưa hiểu rõ tiềm năng ứng dụng rộng lớn của ngành học trong các lĩnh vực như dược phẩm, thực phẩm, môi trường hay nông nghiệp công nghệ cao.
Bên cạnh đó, sự cạnh tranh từ các ngành “hot”, được đánh giá cao về triển vọng nghề nghiệp như công nghệ thông tin, kinh doanh khiến lĩnh vực kém hấp dẫn. Ngoài ra, số lượng chương trình đào tạo chuyên sâu, đặc biệt ở bậc sau đại học còn hạn chế, khiến các thí sinh giỏi có ít lựa chọn.
Đối với học sinh phổ thông, yêu cầu học tập khắt khe, đòi hỏi nền tảng vững chắc trong môn Toán, Vật lý, Hóa hóa và Sinh học cũng khiến học sinh e ngại.

Trong khi đó, Tiến sĩ, Bác sĩ thú y Đinh Xuân Phát - Trưởng khoa, Khoa Khoa học Sinh học, Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh cho biết, nếu đạt được mục tiêu đào tạo chuyên sâu 5 nghìn người/năm ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh vào năm 2030, Việt Nam sẽ có bước chuyển quan trọng trong phát triển ngành khoa học sự sống nói riêng và các lĩnh vực công nghệ cao nói chung.
Bên cạnh tăng cường lực lượng nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò then chốt trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo và xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ sinh học.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể phát triển nhiều sản phẩm công nghệ cao như vaccine, dược sinh học, enzyme công nghiệp hay vật liệu sinh học, những sản phẩm mang thương hiệu “Made in Vietnam” có giá trị gia tăng lớn, giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Đồng thời, đội ngũ được đào tạo bài bản sẽ góp phần nâng cao năng lực tự chủ về khoa học và công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực y tế và nông nghiệp. Điều này giúp Việt Nam chủ động hơn trong việc phòng chống dịch bệnh, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi mới và phát triển các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên khoa học sự sống.
Cùng với đó, nguồn nhân lực dồi dào sẽ tạo ra tác động lan tỏa tích cực đối với chất lượng giáo dục đại học và nghiên cứu cơ bản. Khi nhu cầu học tập và làm việc trong ngành gia tăng, các cơ sở đào tạo buộc phải đầu tư nâng cấp chương trình giảng dạy, cải thiện hạ tầng và cập nhật công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng tổng thể của ngành sinh học tại Việt Nam.

Cần hướng đến gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo – nghiên cứu – ứng dụng thực tiễn
Theo Tiến sĩ, Bác sĩ thú y Đinh Xuân Phát, cơ sở giáo dục đại học là lực lượng nòng cốt trong việc hiện thực hóa mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học và y sinh.
Một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tích hợp, liên ngành và gắn với thực tiễn. Nội dung giảng dạy cần cập nhật các xu hướng mới như tin sinh học, trí tuệ nhân tạo trong y sinh, công nghệ gene, kỹ thuật y sinh và sinh học hệ thống. Việc này giúp người học vừa có nền tảng học thuật vững chắc, vừa có khả năng thích ứng và ứng dụng trong môi trường làm việc thực tế.
Song song đó, các trường cần tăng cường đào tạo thực hành, nghiên cứu và kết nối chặt chẽ với doanh nghiệp. Việc xây dựng mô hình đào tạo gắn liền với phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, công ty công nghệ sinh học hoặc bệnh viện sẽ tạo điều kiện để sinh viên rèn luyện kỹ năng và sớm tiếp cận cơ hội việc làm sau tốt nghiệp.
Mặt khác, muốn đào tạo ra nhân lực chất lượng cao, không thể thiếu đội ngũ giảng viên trình độ cao. Cơ sở giáo dục cần có chiến lược dài hạn nhằm thu hút, bồi dưỡng và giữ chân đội ngũ giảng viên có học vị cao, có năng lực nghiên cứu, đặc biệt là những người có kinh nghiệm đào tạo quốc tế.
Cùng với đó, đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại là điều kiện tiên quyết. Công nghệ sinh học là ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật phòng thí nghiệm, vì vậy cần ưu tiên ngân sách hoặc thúc đẩy hợp tác công – tư để xây dựng các trung tâm nghiên cứu và thực hành đạt chuẩn quốc tế.
Đồng thời, việc mở rộng liên kết quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong nâng cao chất lượng đào tạo. Tham gia mạng lưới hợp tác toàn cầu, đồng tổ chức chương trình đào tạo liên kết, trao đổi giảng viên – sinh viên, cũng như tham gia vào các dự án nghiên cứu chung sẽ tạo ra môi trường học thuật năng động, giúp sinh viên Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với tri thức tiên tiến của thế giới.

Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành công nghệ sinh học, sinh học và y sinh, Trưởng khoa, Khoa Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Dược Hà Nội cho rằng việc mở rộng các chương trình đào tạo tài năng là rất cần thiết. Hiện nay, một số trường đại học đã triển khai các mô hình đào tạo bậc đại học chuyên sâu hơn so với chương trình đại trà, như chương trình cử nhân tài năng, chương trình đào tạo liên kết quốc tế… nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong những lĩnh vực công nghệ cao.
Đầu vào của chương trình tài năng thường yêu cầu cao hơn về năng lực học tập, đặc biệt là năng lực ngoại ngữ. Đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy cũng được tuyển chọn kỹ lưỡng, đảm bảo trình độ chuyên môn sâu, giàu kinh nghiệm và có khả năng giảng dạy bằng tiếng nước ngoài.
Về nội dung, chương trình được thiết kế theo hướng hiện đại, tích hợp cả nền tảng cơ bản lẫn các kiến thức cập nhật theo xu hướng mới của ngành, có sự tham chiếu hoặc chuyển giao từ những đại học uy tín trên thế giới.
Phương pháp đào tạo cũng được đổi mới theo hướng lấy người học làm trung tâm, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tư duy phản biện và kỹ năng mềm. Đây là yếu tố rất quan trọng đối với việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học sau này.
Ngoài ra, sinh viên thuộc các chương trình đào tạo tài năng được tiếp cận cơ sở vật chất hiện đại, phòng thí nghiệm chuyên sâu, và tham gia hoạt động thực hành thực tế, thực tập tại doanh nghiệp, giao lưu học thuật quốc tế, trao đổi sinh viên, hoặc tham gia vào các dự án nghiên cứu, khởi nghiệp – đổi mới sáng tạo. Điều này không chỉ mở rộng tầm nhìn nghề nghiệp mà còn tạo nền tảng cho việc học tập ở bậc cao hơn trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu phát triển mạnh mẽ nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực sinh học, y sinh, việc đẩy mạnh chương trình đào tạo tài năng là chìa khóa để hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tăng sức cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực công nghệ cao.
Trong khi đó, Viện trưởng Viện Công nghệ Sinh học và Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Mở Hà Nội chia sẻ kế hoạch của đơn vị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và tăng số lượng sinh viên, hướng đến gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo – nghiên cứu – ứng dụng thực tiễn.
“Với mục tiêu tăng cả số lượng lẫn chất lượng sinh viên, đơn vị đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, chú trọng gắn kết đào tạo với thực tiễn và tăng cường hợp tác quốc tế.
Một trong những định hướng trọng tâm là đào tạo ứng dụng thực tiễn, hướng đến việc hình thành đội ngũ kỹ sư, chuyên gia có khả năng vận dụng kiến thức công nghệ sinh học vào sản xuất, nghiên cứu và đời sống. Cùng với đó, viện đã và đang đầu tư nâng cấp hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, như phòng công nghệ cao, phòng công nghệ thực phẩm, vi sinh vật học và phát triển sản phẩm – tạo điều kiện tối ưu để sinh viên thực hành, nghiên cứu.
Về hợp tác quốc tế, viện mở rộng kết nối với nhiều trường và tổ chức uy tín như Trung tâm Đào tạo Nông nghiệp Quốc tế AICAT (Israel), các trường đại học tại Hàn Quốc, Nhật Bản… nhằm triển khai chương trình trao đổi sinh viên, cấp học bổng và đồng tổ chức các hoạt động học thuật.
Viện cũng khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp, với nhiều dự án ứng dụng thực tế. Đặc biệt, viện tăng cường hợp tác với nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để tạo đầu ra vững chắc cho sinh viên”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tạ Thị Thu Thủy chia sẻ.