Nghiên cứu khoa học là “đòn bẩy” để Việt Nam vươn tầm

24/06/2025 06:42
Lưu Diễm

GDVN - CSGDĐH là môi trường khả thi nhất để mạnh dạn đầu tư cho đổi mới sáng tạo, nghiên cứu rủi ro, phát huy trí tuệ nhân tài.

Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, chỉ khi khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được đầu tư một cách bài bản và xứng tầm thì mới có thể thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển. Để hiện thực hóa mục tiêu này, ngành giáo dục cũng không đứng ngoài dòng chảy đó. Những cơ chế, chính sách đột phá ở Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị sẽ góp phần mở ra triển vọng mới, tạo động lực cho các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ gắn liền với sứ mệnh cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.

Nghị quyết 57 là “kim chỉ nam” cho cơ sở giáo dục đại học

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Phạm Trọng Thuật - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cho biết: Muốn hoạt động đổi mới sáng tạo và nghiên cứu khoa học công nghệ đạt hiệu quả cao, cần có sự đồng thời tham gia, đầu tư từ các bên là: Nhà nước - cơ sở giáo dục đại học - doanh nghiệp và sự chủ động nâng cao năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên.

Có thể nói, Nghị quyết 57-NQ/TW tạo bước ngoặt lớn cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tạo động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất và đưa Việt Nam phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.

Theo đó, một trong những mục tiêu cụ thể đặt ra đến năm 2030 tại Nghị quyết 57 là: “Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân”. Thầy Phạm Trọng Thuật đánh giá, mục tiêu này có ý nghĩa quan trọng, đóng vai trò then chốt đối với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước. Đây chính là nền tảng để Việt Nam từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức, nâng cao năng suất lao động và vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

anh-4.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Đối với cơ sở giáo dục đại học, Nghị quyết 57 không chỉ là “kim chỉ nam” cho quá trình phát triển, mà còn là tiền đề quan trọng để đội ngũ giảng viên, nhà khoa học thực hiện nhiệm vụ chuyển giao các kết quả nghiên cứu vào phục vụ thực tiễn cho cộng đồng và xã hội. Mục tiêu nâng tỷ lệ đạt 12 nhà nghiên cứu trên một vạn dân sẽ mở ra cơ hội tiềm năng giúp giải quyết hiệu quả các vấn đề của xã hội như y tế, giáo dục, môi trường và an sinh xã hội thông qua các giải pháp công nghệ tiên tiến.

Mặt khác, mục tiêu này còn góp phần định hình thị trường lao động, tạo ra nhiều cơ hội việc làm chất lượng cao trong các lĩnh vực khác nhau; đồng thời tích cực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học, để không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, từ đó hình thành đội ngũ nhân lực tinh hoa, đủ sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Đồng tình với ý kiến trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu đưa khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng vào năm 2030 là một bước tiến quan trọng nhằm tăng cường hàm lượng khoa học, công nghệ cho xã hội và cũng là cơ sở cần thiết để tái cấu trúc cơ cấu của nền kinh tế đất nước trong thời gian tới.

Nghị quyết 57 còn đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là: Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển.

anh-2.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ, mặc dù khoản kinh phí 2% GDP cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển là mức trung bình chung của thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, trong những năm gần đây, mức chi cho lĩnh vực này chỉ vào khoảng 0,5% GDP. Nếu mức chi cho nghiên cứu và phát triển được nâng lên 2% GDP, đồng nghĩa với việc nguồn kinh phí dành cho lĩnh vực này sẽ tăng gấp bốn lần. Đây là một con số ấn tượng, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc đầu tư cho khoa học công nghệ, một trụ cột quan trọng của quá trình tăng trưởng bền vững.

Tuy nhiên, đi kèm với cơ hội cũng cần lưu ý những thách thức đặt ra khi nâng mức chi cho nghiên cứu và phát triển. Trong đó, đòi hỏi sự tính toán kỹ lưỡng nhằm huy động đủ 2% GDP cho nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là từ các nguồn thu ngoài ngân sách. Bên cạnh đó, cần phải sử dụng nguồn kinh phí này cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển một cách hiệu quả, bảo đảm các khoản đầu tư được phân bổ hợp lý.

Ở một số quốc gia có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản,…, mức chi cho các hoạt động khoa học công nghệ đều chiếm tỉ lệ rất lớn. Nhờ sự đầu tư trọng tâm, trọng điểm và nhất quán, các nước này đã xây dựng được nền khoa học công nghệ vững chắc, đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội trên trường quốc tế, các sản phẩm khoa học công nghệ của những quốc gia này cũng chi phối mạnh mẽ thị trường toàn cầu trong nhiều lĩnh vực.

anh-11.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ những bài học kinh nghiệm của các nước phát triển, có thể thấy rõ ràng rằng, nếu Việt Nam tăng cường đầu tư một cách bài bản và có chiến lược cho các hoạt động khoa học công nghệ, đồng thời bảo đảm việc sử dụng nguồn kinh phí này đúng mục đích và hiệu quả, thì sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta sẽ được nâng cao đáng kể. Khi gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ ngày càng cao, Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi để tái cơ cấu nền kinh tế, nắm giữ “chìa khóa” mở ra “cánh cửa” thúc đẩy sự phát triển bền vững ở cả chiều rộng và chiều sâu. Ngoài ra, đây cũng chính là nền tảng để Việt Nam từng bước bứt phá, sớm gia nhập vào nhóm những nước có mức thu nhập bình quân cao.

Cần hành lang pháp lý đột phá để tạo “cú hích”

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực nhấn mạnh: “Không một cơ sở giáo dục đào tạo nào có thể phát triển bền vững nếu đứng ngoài các mối liên kết với doanh nghiệp, viện nghiên cứu và xã hội”. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, giáo dục đại học đã và đang đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ còn hạn chế do cơ chế đặt hàng các dự án, đề tài từ nguồn ngân sách nhà nước cho các trường đại học và sự gắn kết chia sẻ các hoạt động này từ phía doanh nghiệp. Mặt khác, các trường chưa khai thác được tối đa nguồn lực của cơ sở đào tạo như nhân lực, vật lực, thời lực,...

anh-3.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực. Ảnh: NTCC.

Ứng dụng, chuyển giao đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện tại nhiều trường còn tồn tại rào cản như: nhà khoa học chưa liên kết chặt chẽ, phát huy hiệu quả thực chất được với doanh nghiệp và nhà đầu tư; sản phẩm nghiên cứu khoa học chưa được ứng dụng và chuyển giao công nghệ rộng rãi ra ngoài xã hội. Nhiều trường chưa chủ động, mở rộng hơn nữa các dịch vụ đào tạo và dịch vụ khác cũng như chưa có nhiều chương trình kết hợp đào tạo giữa nhà trường với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Ngoài ra, do chưa tìm hiểu sâu được văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài vào giáo dục Việt Nam nên có thể trường gặp hạn chế hợp tác đào tạo quốc tế, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.

Gắn kết hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ giữa nhà trường và doanh nghiệp không chỉ là một yêu cầu mang tính khách quan mà còn là xu hướng tất yếu trong bối cảnh nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên để đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc thúc đẩy liên kết với doanh nghiệp được xem là một trong những giải pháp trọng tâm nhằm hiện thực hóa định hướng đào tạo gắn với thực tiễn, đồng thời giúp các doanh nghiệp khai thác hiệu quả tiềm lực nghiên cứu, từ đó nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, cải tiến công nghệ, tối ưu hóa hoạt động sản xuất và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi năng lượng diễn ra mạnh mẽ, Trường Đại học Điện lực đã xác định rõ vai trò tiên phong trong nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ số nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đóng góp thiết thực cho sự phát triển bền vững của ngành năng lượng Việt Nam.

anh-13.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Điện lực.

Những năm qua, nhà trường không ngừng nỗ lực đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm hiện đại và đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thúc đẩy nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn. Các đề tài nghiên cứu do cán bộ, giảng viên và sinh viên thực hiện hướng tới tính ứng dụng cao, tập trung vào các lĩnh vực như năng lượng tái tạo, lưới điện thông minh, công nghệ điện tử công suất, tự động hóa và quản lý năng lượng hiệu quả, đặc biệt trong các ngành công nghệ mũi nhọn như vi mạch bán dẫn, kỹ thuật máy tính và điện tử - viễn thông.

Hiện nay, Trường Đại học Điện lực đang hợp tác với hơn 200 doanh nghiệp trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Điều đó cho thấy mối liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp ngày càng được đẩy mạnh và triển khai thực hiện một cách chặt chẽ, thường xuyên, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Công tác này được xây dựng qua hoạt động kết nối đặt hàng, giải quyết các bài toán thực tiễn của doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học.

Các thỏa thuận ký kết hợp tác thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp như: Viện Khoa học Vật liệu, VNPT Technology, Trung tâm Bán dẫn Viettel, FPT Telecom, Công ty Dịch vụ Mobifone, Công ty Công nghệ Pavana,... Điều này hướng tới mục tiêu chung là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực mũi nhọn.

Bên cạnh đó, Trường Đại học Điện lực triển khai thành công Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ năm 2015. Quy mô đào tạo tăng mạnh từ 12.000 sinh viên lên gần 20.000; ngành đào tạo đại học tăng từ 19 lên 32 ngành, bao gồm nhiều lĩnh vực công nghệ cốt lõi phục vụ công nghiệp hóa; đẩy mạnh kiểm định chất lượng; đồng thời phát triển đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhà khoa học chất lượng cao; góp phần hiện thực hóa vào mục tiêu chung theo tinh thần của Nghị quyết 57.

anh-6.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Phạm Trọng Thuật, thời gian vừa qua, các cơ chế, chính sách đã tạo điều kiện tương đối cho các trường đại học được tự chủ trong học thuật cũng như trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Song, cần có những chính sách đột phá hơn nữa nhằm hỗ trợ việc xây dựng đội ngũ chất lượng cao, từ đó thu hút nhân tài cho các trường đại học có thể thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết 57.

Cụ thể, các trường đại học cần có những ưu đãi về thuế và hỗ trợ tài chính đủ mạnh nhằm thu hút các các nhà nghiên cứu ngoài trường bao gồm cả trong và ngoài nước, cùng với các giảng viên cơ hữu, các nhà nghiên cứu thực hiện các dự án khoa học thuộc lĩnh vực đào tạo của mỗi trường. Cần ưu tiên phát triển mô hình hợp tác giữa trường đại học với các doanh nghiệp trong việc hợp tác nghiên cứu và ứng dụng chuyển giao công nghệ vào thực tiễn cuộc sống.

Về dài hạn, cần có chính sách cho các nhà nghiên cứu trẻ, các giảng viên ưu tú được tham gia nâng cao trình độ thông qua các khóa học ngắn hạn tại cơ sở nghiên cứu, tập đoàn hoặc nghiên cứu học tập tại cơ sở giáo dục đại học tiên tiến trên thế giới. Đồng thời, cần mạnh dạn trích quỹ đầu tư mạo hiểm cho các dự án khởi nghiệp của sinh viên với sự tham gia tư vấn, giám sát của các giảng viên, chuyên gia của nhà trường nhằm khuyến khích những đột phá trong nghiên cứu ứng dụng.

anh-1.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Là cơ sở giáo dục hàng đầu đào tạo kiến trúc sư, kỹ sư trong các lĩnh vực xây dựng, hạ tầng kỹ thuật đô thị, quản lý đô thị và các lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội với đội ngũ gần 600 giảng viên và nhà nghiên cứu là các chuyên gia hàng đầu trong ngành Xây dựng - được coi là nguồn nhân lực chất lượng cao của nhà trường. Đây chính là lực lượng tiên phong trong các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, thực hiện các dự án, các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng trọng điểm của Bộ Xây dựng.

Nhà trường đang trong giai đoạn hoàn thiện cơ sở vật chất, trong đó chú trọng đầu tư các nhóm nghiên cứu mạnh với sự tham gia của một số living-lab, nhằm hiện thực hóa kết quả các nghiên cứu chuyên sâu mang tính ứng dụng vào thực tiễn.

Trong thời gian tới, nhà trường tập trung nâng cao chất lượng đào tạo thông qua chủ trương tăng cường tự chủ đại học và liên tục cập nhật chương trình đào tạo đảm bảo bám sát các kiến thức, kỹ thuật, công nghệ mới cũng như các yêu cầu thực tiễn của thị trường nguồn nhân lực.

Việc nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ giảng viên được coi là nhiệm vụ thường xuyên, đặc biệt trong việc cập nhật kiến thức, công nghệ và ngoại ngữ. Ngoài ra, nhà trường tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất theo chiều sâu, đặc biệt đầu tư vào hạ tầng công nghệ, chuyển đổi số, chú trọng đưa công nghệ thực tế ảo và AR/VR hỗ trợ giảng dạy và nghiên cứu.

anh-5.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Xây dựng hệ sinh thái đổi mới để phát huy hơn nữa trí tuệ chuyên gia

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ cho hay, với vai trò và sứ mệnh của Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, nhà trường luôn xác định các hoạt động khoa học công nghệ là một nhân tố quan trọng, đóng vai trò trụ cột trong sự phát triển của cơ sở giáo dục. Bởi nguồn thu từ các hoạt động liên quan tới khoa học công nghệ chiếm tỉ lệ tương đối cao trong tổng nguồn thu của nhà trường.

Để đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57, trong thời gian tới, cơ sở đào tạo sẽ tập trung tổ chức và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, gắn với những lĩnh vực công nghệ chiến lược, hướng tới việc làm chủ công nghệ cốt lõi, trọng yếu và hình thành các trung tâm xuất sắc về khoa học công nghệ.

Đồng thời, nhà trường cũng không ngừng nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo cũng như thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ. Mục tiêu là tạo ra một môi trường năng động, nơi các ý tưởng sáng tạo có thể được ươm mầm, phát triển thành các sản phẩm khoa học công nghệ có tính ứng dụng cao trong thực tiễn.

anh-12.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Thông qua đó, các kết quả nghiên cứu từ cơ sở giáo dục đại học không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà còn được hiện thực hóa, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và khẳng định vai trò của nhà trường trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.

Đối với Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Phạm Trọng Thuật chia sẻ, trong lộ trình tiến tới tự chủ hoàn toàn, nhà trường xác định sẽ tiếp tục huy động sự đầu tư nguồn lực từ xã hội, từ năng lực của đội ngũ giảng viên, từng bước nâng cao tỷ trọng nguồn thu từ hoạt động khoa học thay cho nguồn thu chủ yếu từ hoạt động đào tạo như hiện nay.

"Các trường đại học đứng trước những thời cơ mới, nhưng tất nhiên cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong guồng quay của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, mà ở đó, nếu không có những thay đổi mang tính chiến lược thì sẽ phải đối mặt với sự tụt hậu rất lớn trong giai đoạn phân hóa về vị thế, uy tín đào tạo và nghiên cứu của môi trường học thuật".

Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Phạm Trọng Thuật nhấn mạnh.

Trong những năm qua, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội luôn hỗ trợ tích cực các giảng viên, nghiên cứu viên của nhà trường đăng ký các đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted). Đội ngũ giảng viên có chuyên môn cao chính là "trụ cột" để nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học. Nhà trường luôn khuyến khích giảng viên có trình độ cao trong các lĩnh vực khoa học mũi nhọn đề xuất thực hiện các đề tài, dự án khoa học do các tập đoàn, các công ty khởi nghiệp đầu tư, kêu gọi vốn.

anh-8.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

Trước định hướng về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cùng với những thay đổi mang tính thời đại, nhà trường cũng xác định đây là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập vị thế mới của nhà trường trong lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao các kết quả nghiên cứu phục vụ cộng đồng.

Lưu Diễm