Phối hợp chặt chẽ 3 nhà "Nhà nước - doanh nghiệp - nhà trường" sẽ giúp công nghệ chiến lược cất cánh

24/08/2025 06:26
Mộc Trà

GDVN-Để phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo trong các trường ĐH, viện nghiên cứu phải được trao quyền tự chủ cao hơn và khuyến khích cơ chế hợp tác công tư.

Nghị quyết số 57 và Nghị quyết số 68 là hai trong bốn nghị quyết đột phá - được xem là “bộ tứ trụ cột” để đưa Việt Nam cất cánh. Những nghị quyết này đã “mở đường”, tạo tiền đề cho sự phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt cần phát huy vai trò sự phối hợp giữa Nhà nước và tư nhân.

Cần kết nối chặt chẽ giữa ba trụ cột “Nhà nước-doanh nghiệp-trường đại học”

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, ông Đặng Hải Lộc - nhà sáng lập và CEO của AIV Group nhìn nhận: “Những nghị quyết của Bộ Chính trị với nội dung hướng trực tiếp tới tạo môi trường pháp lý và chính sách thuận lợi nhằm đạt được đột phá về khoa học công nghệ và chuyển đổi số quốc gia.

Sự kết hợp này mở ra không gian thuận lợi cho khởi nghiệp: Nhà nước cam kết cơ chế hỗ trợ rõ ràng (hạ tầng, ưu đãi tài chính, đất đai, thuế) và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp sáng tạo, trong khi doanh nghiệp tư nhân chủ động ứng dụng công nghệ mới.

Dưới góc độ một đơn vị khởi nghiệp công nghệ về trí tuệ nhân tạo, tôi đặc biệt quan tâm tới “các chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp… đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ” mà Nghị quyết số 57 đã đề cập. Vấn đề tạo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nước ngoài có hoạt động tại Việt Nam cũng là một vấn đề quan trọng để các đơn vị khởi nghiệp, doanh nghiệp tư nhân thực sự trở thành “lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”.

Ông Đặng Hải Lộc - nhà sáng lập và CEO của AIV Group. Ảnh: NVCC.

Ông Đặng Hải Lộc - nhà sáng lập và CEO của AIV Group. Ảnh: NVCC.

Chia sẻ về những thời cơ, thách thức của Việt Nam, ông Nguyễn Gia Hy - giảng viên AI tại Đại học Swinburne (Úc), nghiên cứu sinh AI tại Đại học Deakin (Úc); nhà sáng lập của SkillPixel và AIFicient cũng chỉ ra: “Để có thể làm chủ, phát triển một số công nghệ chiến lược, công nghệ số, cần hội tụ nhiều yếu tố nền tảng: hạ tầng tính toán mạnh, khả năng truy cập dữ liệu lớn và chất lượng, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, cùng với một hệ sinh thái liên kết giữa nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý.

Việt Nam hiện đang có những lợi thế đáng kể, đặc biệt là yếu tố con người. Ngoài ra, nhiều trường đại học đã bắt đầu triển khai các chương trình đào tạo chuyên sâu về AI, khoa học dữ liệu, bán dẫn. Đây là nền tảng vững chắc để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng lâu dài cho các mảng công nghệ chiến lược trên. Chi phí nhân công thấp giúp Việt Nam có lợi thế trong các công việc như gán nhãn dữ liệu - một bước quan trọng trong quy trình phát triển AI. Nhiều dự án AI quy mô lớn trên thế giới đều dựa vào các trung tâm dữ liệu tại Đông Nam Á để thực hiện công việc này.

Tuy nhiên, thách thức cũng rõ ràng. Rào cản lớn nhất hiện nay chính là sự hạn chế về hạ tầng tính toán. Nhiều nhóm nghiên cứu, kể cả tại các trường đại học lớn, vẫn đang gặp khó khăn khi tiếp cận GPU hoặc các nền tảng cloud chuyên dụng để đào tạo mô hình AI. Điều này khiến quá trình nghiên cứu và thử nghiệm gặp nhiều rào cản.

Một thử thách khác là sự thiếu kết nối chặt chẽ giữa ba trụ cột: Nhà nước - Doanh nghiệp - Trường đại học. Chúng ta cần một hệ sinh thái gắn kết, nơi doanh nghiệp đặt bài toán thực tiễn, nhà trường đào tạo và nghiên cứu có định hướng, còn Nhà nước tạo hành lang pháp lý cùng các chính sách hỗ trợ dài hạn”.

Ở góc nhìn tương tự, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thành - giảng viên tại Đại học Central Queensland (Úc), đồng thời, thầy đã có hơn 10 năm giảng dạy tại Khoa Kỹ thuật và Công nghệ (Đại học RMIT Việt Nam) và đảm nhiệm vai trò Giám đốc Kỹ thuật AI cho một số startup tại Singapore như Taipy, Ameno cũng chỉ ra thời cơ lớn nhất hiện tại chính là sự thay đổi về thể chế, chuyển từ mô hình Nhà nước quản lý sang Nhà nước kiến tạo và hỗ trợ phát triển. Cùng với đó, cuộc cách mạng AI đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu mang lại cơ hội “bây giờ hoặc không bao giờ” để Việt Nam vươn lên, gia nhập hàng ngũ các quốc gia phát triển.

Còn khó khăn chính nằm ở sự cạnh tranh khốc liệt trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo... Thực tế cho thấy, hai doanh nghiệp nước ngoài có số lượng kỹ sư nghiên cứu lớn nhất là Bosch và Samsung ở Việt Nam cũng chỉ có hơn 2.000 kỹ sư/doanh nghiệp, trong khi các doanh nghiệp khác như Intel, LG, Panasonic chỉ có vài trăm kỹ sư. So với hai doanh nghiệp nội địa là Viettel (khoảng 15.000-20.000 kỹ sư) và FPT (khoảng 20.000-25.000 kỹ sư), số lượng kỹ sư của các tập đoàn nước ngoài khá khiêm tốn và khó tạo ra đột phá lớn.

Điều này cho thấy việc thu hút các tập đoàn sản xuất công nghệ lớn có thể tạo ra nhiều công việc lắp ráp đơn giản, nhưng năng lực khoa học kỹ thuật thực sự của quốc gia vẫn sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chính các doanh nghiệp nội địa và đội ngũ kỹ sư trong nước.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thành cũng nhấn mạnh, khoa học công nghệ là một khái niệm rất rộng lớn, bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau: xây dựng, hàng không, điều khiển, tự động hoá, sinh học, hoá học, môi trường, điện tử-viễn thông, công nghệ thông tin và truyền thông, máy tính, phần mềm, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, Internet vạn vật, bán dẫn và gần đây nhất là trí tuệ nhân tạo cũng như trí tuệ nhân tạo tạo sinh. Sắp tới, có thể kể thêm các lĩnh vực như công nghệ quốc phòng, đường sắt cao tốc hoặc năng lượng hạt nhân.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thành - giảng viên tại Đại học Central Queensland (Úc), đồng thời, ông đã có hơn 10 năm giảng dạy tại Khoa Kỹ thuật và Công nghệ (Đại học RMIT Việt Nam). Ảnh: NVCC.

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thành - giảng viên tại Đại học Central Queensland (Úc), đồng thời, ông đã có hơn 10 năm giảng dạy tại Khoa Kỹ thuật và Công nghệ (Đại học RMIT Việt Nam). Ảnh: NVCC.

“Do nguồn lực trong nước có hạn, chúng ta không thể dàn trải nguồn lực cho tất cả các lĩnh vực và mong muốn giỏi đều trong mọi mảng.

Hiện nay, sự phối hợp giữa Nhà nước và khu vực tư nhân vẫn còn khá “mờ nhạt”. Các dự án của Nhà nước hầu hết do các công ty, tập đoàn nhà nước thực hiện, còn các công ty tư nhân thì chủ yếu làm ra sản phẩm phục vụ chính họ hoặc các doanh nghiệp tư nhân khác.

Tôi cho rằng, việc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, thậm chí có chính sách ưu đãi cho bên yếu thế hơn như các startup nhỏ để có cơ hội tham gia dự án sẽ mang lại lợi ích lâu dài. Chẳng hạn, chúng ta có thể ưu tiên các dự án dưới 100.000-200.000 USD cho các start-up nhỏ” - Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thành chia sẻ.

Sự phối hợp giữa Nhà nước và tư nhân là then chốt để làm chủ các công nghệ chiến lược

Theo ông Đặng Hải Lộc, đặc thù chung của các công nghệ có tính chiến lược như AI, IoT, Big Data…hiện nay là đều yêu cầu đầu tư rất lớn, không một doanh nghiệp tư nhân đơn lẻ nào có thể tự đầu tư được. Đặc biệt, với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, sự phối hợp giữa Nhà nước và khu vực tư nhân lại càng then chốt để làm chủ các công nghệ chiến lược này.

“Hiện nay, sự phối hợp này được thể hiện qua các đề án, quỹ đầu tư công nghệ và mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong nghiên cứu. Tuy nhiên, cần thúc đẩy mạnh hơn: Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đặc biệt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp công nghệ nhận đặt hàng phát triển các nhiệm vụ chuyển đổi số và ứng dụng AI.

Đồng thời, cần lưu ý hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cao về AI - dữ liệu thông qua hợp tác đào tạo công tư, đào tạo lại lao động, như Nghị quyết số 68 nêu đẩy mạnh giáo dục kỹ năng STEM, kỹ năng số. Mặt khác, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, minh bạch hoá môi trường kinh doanh để gia tăng niềm tin giữa Nhà nước và doanh nghiệp” - ông Đặng Hải Lộc đề cập.

Làm rõ hơn về vai trò của sự phối hợp giữa Nhà nước và tư nhân, ông Nguyễn Gia Hy phân tích: “Đây là điều cực kỳ cần thiết, hai bên cần phải song hành, hỗ trợ lẫn nhau để chung tay phát triển các mảng công nghệ chiến lược.

Để thúc đẩy sự phối hợp này tốt hơn, chúng ta có thể tiếp tục hoàn thiện các chính sách hỗ trợ R&D, tạo các ưu đãi thuế rõ ràng giúp các doanh nghiệp yên tâm phát triển.

Ngoài ra, cũng cần sự phối hợp từ các trường đại học, vì đây sẽ là nguồn cung nhân lực chất lượng. Các trường cần liên tục cập nhật chương trình đào tạo, tích hợp nhiều kiến thức thực tiễn để sinh viên có khả năng triển khai các giải pháp công nghệ mà doanh nghiệp cần.

Chúng ta cần đào tạo những kỹ sư, chuyên gia không chỉ giỏi về lý thuyết, mà còn có khả năng giải quyết vấn đề thực tế. Cần có nhiều hơn nữa các chương trình thực tập chuyên sâu, các đồ án tốt nghiệp do doanh nghiệp đặt hàng và các cơ chế để giảng viên, nghiên cứu sinh có thể tham gia vào các dự án R&D của doanh nghiệp, giúp thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết với thực tiễn”.

Ông Nguyễn Gia Hy - giảng viên AI tại Đại học Swinburne (Úc), nghiên cứu sinh AI tại Đại học Deakin (Úc); nhà sáng lập của SkillPixel và AIFicient. Ảnh: NVCC.

Ông Nguyễn Gia Hy - giảng viên AI tại Đại học Swinburne (Úc), nghiên cứu sinh AI tại Đại học Deakin (Úc); nhà sáng lập của SkillPixel và AIFicient. Ảnh: NVCC.

Ông Đặng Hải Lộc đánh giá, thuận lợi hiện nay đối với lĩnh vực này là quyết tâm rất lớn cho chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Cả Nghị quyết số 57 và Nghị quyết số 68 đều tập trung cải cách thể chế, ưu tiên nguồn lực cho khoa học công nghệ; đồng thời kinh tế số tăng trưởng nhanh, người dân và doanh nghiệp ngày càng am hiểu công nghệ.

Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Nghị quyết số 68 chỉ rõ: khu vực này phần lớn quy mô nhỏ, “tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp”. Các doanh nghiệp gặp rào cản trong tiếp cận nguồn vốn, công nghệ, đất đai, nhân lực chất lượng cao và nhiều chính sách ưu đãi vẫn “chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận” .

Rào cản lớn nhất hiện nay là thể chế và môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh. Mặc dù đã có những chính sách hỗ trợ, nhưng nhiều quy định vẫn rườm rà, thiếu thống nhất, dẫn đến chi phí tuân thủ cao và sợ rủi ro pháp lý.

Chính phủ và Quốc hội cũng đã thúc đẩy xây dựng luật hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tư nhân, hoàn thiện các nghị định quy định cơ chế ưu đãi, đặc biệt cho công nghệ số, dữ liệu, thử nghiệm chính sách mới như sandbox về Fintech, AI. Tuy nhiên, quá trình này còn cần tiếp tục đẩy mạnh trong những năm tới.

Các trường, viện phải được trao quyền tự chủ cao hơn và khuyến khích cơ chế hợp tác công tư

Cũng theo ông Đặng Hải Lộc, để phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở đào tạo, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:

Trước hết, các trường, viện phải được trao quyền tự chủ cao hơn và khuyến khích cơ chế công tư hợp tác. Nghị quyết số 57 đề xuất cho phép “các tổ chức nghiên cứu, nhà khoa học thành lập và tham gia điều hành doanh nghiệp dựa trên kết quả nghiên cứu”, giúp tăng cường chuyển giao công nghệ từ phòng thí nghiệm ra thị trường. Nhà nước nên áp dụng chính sách mua sắm công công bằng, ưu tiên các sản phẩm trí tuệ do trường, viện tạo ra , tạo động lực kinh tế cho nghiên cứu khoa học.

Tiếp đó, cần đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm R&D trọng điểm tại trường đại học và viện nghiên cứu. Nghị quyết số 57 khuyến khích “đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ” , đặc biệt cho các công nghệ mới như AI, mạng 5G, IoT. Kết hợp với đó, tăng cường hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ tiên tiến và đào tạo đội ngũ nhà khoa học trẻ.

Giải pháp khác là đổi mới chương trình giảng dạy, nâng cao tỉ trọng đào tạo kỹ sư, nhà nghiên cứu trong STEM và các ngành liên quan. Cần triển khai phong trào khởi nghiệp trong sinh viên. Đồng thời, nhà trường phải xây dựng cơ chế đãi ngộ phù hợp cho giảng viên, nhà khoa học có thành tích nghiên cứu (như quỹ sáng kiến, thưởng dự án thành công).

Do đó, ông Lộc cho rằng, nếu thực hiện nghiêm túc các giải pháp trong Nghị quyết số 57, sẽ giúp trường đại học và viện nghiên cứu đóng vai trò then chốt trong việc làm chủ công nghệ số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ đích đến của chuyển đổi số quốc gia.

Bên cạnh những đề xuất đã được đưa ra và phân tích ở trên, nhà sáng lập của SkillPixel và AIFicient - ông Nguyễn Gia Hy cho rằng, có một số yếu tố khác cũng nên được tập trung: “Đầu tư phát triển cả ngành bán dẫn để làm nền tảng phục vụ nhu cầu tính toán cao của AI; Nghiên cứu năng lượng giá thấp để phục vụ tính toán; Phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân để xây dựng các bộ dữ liệu để giải quyết các bài toán đặc thù của Việt Nam”.

Mộc Trà