Trường nghề còn băn khoăn về giảng viên đồng cơ hữu trong dự thảo Luật GDNN

28/07/2025 06:31
Sơn Linh

GDVN - Việc trao quyền tự chủ mang đến nhiều thuận lợi cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhưng cần đi kèm với trách nhiệm giải trình để nâng cao chất lượng.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) với nhiều nội dung đổi mới quan trọng. Trong đó đã mở rộng quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhưng đi kèm với quy định về hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ, công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình. Và đặc biệt, dự thảo cũng có quy định về giảng viên đồng cơ hữu, thu hút sự quan tâm của các chuyên gia giáo dục và dư luận.

Mở rộng quyền tự chủ mang lại thuận lợi cả trong hoạt động chuyên môn lẫn quản trị nội bộ

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ Hồ Nguyễn Cúc Phương - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định việc dự thảo mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là trong tuyển sinh, tự chủ xây dựng chương trình đào tạo, tự quyết định học phí, đội ngũ giảng viên, hợp tác quốc tế... sẽ mang lại nhiều thuận lợi rõ rệt cả trong hoạt động chuyên môn lẫn quản trị nội bộ.

Về chuyên môn, quyền tự chủ trong tuyển sinh cho phép các cơ sở giáo dục nghề nghiệp linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu, hình thức đào tạo theo nhu cầu thực tế của địa phương và doanh nghiệp.

Nhờ đó, các trường có thể phản ứng nhanh hơn với biến động của thị trường lao động, kịp thời mở ngành mới hoặc đổi mới phương thức tuyển sinh để đáp ứng yêu cầu về nhân lực chất lượng cao.

Không những vậy, tự chủ về đội ngũ giảng viên cũng giúp các cơ sở chủ động tuyển dụng, bố trí nhân sự phù hợp với thực tiễn, mời giảng viên từ doanh nghiệp và chuyên gia trong ngành. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn tạo điều kiện để cơ sở đào tạo cập nhật chương trình sát với nhu cầu thực tế và năng lực giảng viên.

Trong lĩnh vực quản trị nội bộ, việc rút ngắn thủ tục hành chính sẽ giúp tăng tốc độ ra quyết định, giảm phụ thuộc vào phê duyệt của cấp trên, qua đó tăng tính chủ động trong triển khai các hoạt động, nhất là trong tổ chức đào tạo và hợp tác với doanh nghiệp.

Đồng thời, việc giảm bớt thủ tục hành chính sẽ giúp đội ngũ lãnh đạo tập trung hơn vào các nhiệm vụ chiến lược. Khi quyền tự chủ đi kèm với cơ chế giám sát hiệu quả, các cơ sở buộc phải nâng cao năng lực quản trị, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

z6822698497437-efc35220106568cf210188cd980aff5c.jpg
Thạc sĩ Hồ Nguyễn Cúc Phương - Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Ngoài ra, tự chủ còn tạo điều kiện cho các đơn vị linh hoạt hơn trong điều chỉnh ngân sách, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả và phù hợp với mô hình đào tạo đặc thù của từng ngành nghề.

Cũng theo Thạc sĩ Hồ Nguyễn Cúc Phương, việc bổ sung các quy định liên quan đến công khai học phí, chính sách học bổng và thiết lập hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ có ý nghĩa thiết thực và sâu rộng đối với cả cơ sở giáo dục nghề nghiệp và người học.

“Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đây là bước tiến quan trọng nhằm nâng cao tính minh bạch và uy tín. Việc công khai học phí và các khoản thu giúp nhà trường xây dựng hình ảnh đáng tin cậy, tạo dựng niềm tin với người học, phụ huynh và toàn xã hội.

Đồng thời, công khai các cam kết về chất lượng đào tạo, chỉ số hiệu quả và kết quả tự đánh giá còn thể hiện trách nhiệm của nhà trường với cộng đồng và khẳng định vị thế trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, yêu cầu xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ sẽ thúc đẩy các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thường xuyên rà soát, đánh giá và cải tiến chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy cũng như công tác quản lý.

Việc gắn cải tiến liên tục với các chỉ số đánh giá hiệu quả đào tạo không chỉ giúp nâng cao chất lượng mà còn bảo đảm sự phát triển bền vững, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động.

Mặt khác, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng được thúc đẩy nâng cao năng lực quản trị thông qua việc xây dựng kế hoạch cải tiến cụ thể và điều chỉnh chiến lược phát triển dựa trên dữ liệu và bằng chứng rõ ràng.

Về phía người học, các quy định mới góp phần nâng cao quyền được biết và được lựa chọn của người học. Việc công khai học phí toàn khóa giúp các em chủ động trong kế hoạch tài chính, tránh phát sinh bất ngờ, đồng thời có cơ sở để so sánh, đánh giá và lựa chọn cơ sở đào tạo phù hợp dựa trên các thông tin về chất lượng đào tạo và kết quả tự đánh giá.

Ngoài ra, việc trích học phí để hỗ trợ học bổng cho người học có hoàn cảnh khó khăn còn góp phần thúc đẩy công bằng trong giáo dục, giúp học sinh nghèo, vùng khó khăn có cơ hội tiếp cận với giáo dục nghề nghiệp.

Khi hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ được vận hành hiệu quả, người học sẽ được học trong một môi trường đào tạo ngày càng chất lượng hơn, gắn với thực tiễn và cập nhật công nghệ mới. Điều này không chỉ nâng cao kỹ năng nghề mà còn tăng cơ hội việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp”, Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh bày tỏ.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Vũ Quang Khuê - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh nhấn mạnh việc minh bạch thông tin là hết sức cần thiết, giúp người học và phụ huynh có đầy đủ cơ sở để lựa chọn, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự phát triển bền vững của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

“Thực tế tại nhà trường, trước mỗi kỳ tuyển sinh, toàn bộ thông tin về chương trình đào tạo, thời gian học, học phí, chuẩn đầu ra, cơ hội miễn giảm học phí, mô hình đào tạo kết hợp doanh nghiệp... đều được công khai rõ ràng. Học sinh được tiếp cận đầy đủ thông tin trước khi nhập học.

Trong quá trình học, các em cũng được giới thiệu kỹ lưỡng về quyền lợi, nghĩa vụ, các mô hình đào tạo kép, đào tạo tại doanh nghiệp, thực tập tốt nghiệp và cơ hội việc làm sau tốt nghiệp.

Việc nâng cao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo là xu hướng tất yếu. Nhà nước cần chuyển vai trò từ quản lý hành chính sang kiến tạo, hỗ trợ các trường chủ động xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo và phối hợp với doanh nghiệp”, Tiến sĩ Vũ Quang Khuê cho hay.

Cần làm rõ tiêu chí công nhận giảng viên đồng cơ hữu

Một điểm mới đáng chú ý trong dự thảo là khái niệm giảng viên “đồng cơ hữu”. Cụ thể, điểm b, khoản 2, điều 19, dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định: "Giảng viên, giáo viên đồng cơ hữu là người đã được tuyển dụng ở một cơ quan, đơn vị không phải Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, được cơ sở giáo dục nghề nghiệp bổ nhiệm để đảm nhiệm chức danh giảng dạy các ngành, nghề chuyên môn đặc thù nếu đáp ứng chuẩn nghề nghiệp".

Theo Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh, cần làm rõ tiêu chí công nhận giảng viên đồng cơ hữu, bởi trong mô hình đào tạo kép hiện nay, kỹ sư từ doanh nghiệp hoàn toàn có thể đảm nhận giảng dạy nếu đáp ứng tiêu chuẩn chuyên môn và sư phạm.

512895725-1295577822571599-4717284200711299898-n.jpg
Tiến sĩ Vũ Quang Khuê - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh. Ảnh: website nhà trường.

“Ở các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, doanh nghiệp đã trở thành một chủ thể trong hệ sinh thái đào tạo. Vì vậy, Việt Nam cần có quy định cụ thể việc công nhận giảng viên đến từ doanh nghiệp như giảng viên đồng cơ hữu, để đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả và chất lượng đào tạo.

Bên cạnh đó, giáo dục nghề nghiệp cũng cần linh hoạt theo sự thay đổi của cơ cấu kinh tế - xã hội. Không thể giữ mãi một chương trình, một nghề trong khi nhu cầu thị trường đã thay đổi.

Do vậy, việc đào tạo liên ngành, tích hợp nhiều lĩnh vực là xu hướng tất yếu. Giảng viên cũng phải được tạo điều kiện để chuyển đổi nghề giảng dạy phù hợp với thực tế.

Tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh, nhiều giảng viên công nghệ hàn đã được đào tạo lại để giảng dạy các lĩnh vực mới như cơ khí chính xác, chế tạo máy, công nghệ ô tô, thậm chí chuyển sang dạy tiếng Anh, Tin học... nếu đáp ứng được yêu cầu. Điều này giúp nhà trường linh hoạt trong tổ chức đào tạo, tránh tình trạng thừa thiếu cục bộ”, thầy Khuê nêu quan điểm.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Tiến sĩ Phùng Quý Sơn - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn cho rằng cần làm rõ hơn về vai trò, trách nhiệm, quy trình bổ nhiệm của giảng viên đồng cơ hữu cũng như tỷ lệ được phép tính vào điều kiện mở ngành.

Hiện nay, các điều kiện về đội ngũ giảng viên vẫn chủ yếu dựa vào số lượng giảng viên cơ hữu, trong khi quy định về quy đổi đối với giảng viên đồng cơ hữu vẫn chưa có. Để thực hiện quyền tự chủ một cách hiệu quả, theo thầy Sơn, cần xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ. Việc tự chủ phải toàn diện từ bộ máy tổ chức, tài chính đến học thuật.

“So với bậc đại học, các trường cao đẳng và cơ sở dạy nghề gặp nhiều khó khăn hơn trong thực thi quyền tự chủ do thiếu cơ chế và năng lực tương ứng. Do đó, Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể để hỗ trợ các cơ sở này thực hiện tự chủ một cách thực chất và hiệu quả. Bên cạnh việc hoàn thiện luật, điều quan trọng là cần có các điều kiện thực thi đi kèm.

Do đó, việc khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý và tạo điều kiện để các trường hoạt động ổn định, chất lượng sẽ là nền tảng quan trọng để phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong thời gian tới”, Tiến sĩ Phùng Quý Sơn nói.

Việc giảng viên đồng cơ hữu có được tính vào đội ngũ giảng viên khi mở ngành hay không là một nội dung cần được làm rõ. Thạc sĩ Hồ Nguyễn Cúc Phương đề xuất, vị trí này có thể được tính đến trong cơ cấu đội ngũ giảng viên phục vụ mở ngành, tuy nhiên cần có quy định cụ thể và giới hạn rõ ràng nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo, do đặc thù giảng viên đồng cơ hữu không tham gia giảng dạy thường xuyên như giảng viên cơ hữu.

Về cách tính, có thể áp dụng theo hai hướng. Thứ nhất, tính tương đương 0,5 so với một giảng viên cơ hữu, phù hợp với hướng dẫn trong nước hoặc thông lệ quốc tế đối với vị trí giảng viên thỉnh giảng hoặc giảng viên bán thời gian.

Thứ hai, có thể quy đổi dựa trên khối lượng giảng dạy thực tế trong một năm. Ví dụ, nếu một giảng viên đồng cơ hữu đảm nhiệm từ 50% trở lên khối lượng giảng dạy hằng năm của một giảng viên cơ hữu thì được tính tương đương 0,5 FTE (full-time equivalent) - tương đương toàn thời gian.

Trong hồ sơ đề xuất mở ngành, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần trình bày đầy đủ, rõ ràng vai trò, khối lượng giảng dạy, kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của các giảng viên đồng cơ hữu, để hội đồng thẩm định có cơ sở đánh giá tính hợp lý và phù hợp với yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo.

Ở bối cảnh hiện tại, sau khi hệ thống chính trị và giáo dục được tái cấu trúc, đòi hỏi Luật Giáo dục nghề nghiệp cần được điều chỉnh, cập nhật để phù hợp với xu hướng phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh khoa học - công nghệ thay đổi nhanh chóng.

513090179-1294731669322881-7393029862393337646-n.jpg
Một giờ thực hành của thầy và trò Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh. Ảnh: website nhà trường.

Nhấn mạnh sự gắn kết giữa đào tạo với thực tiễn, phối hợp cùng doanh nghiệp, đại diện Trường Cao đẳng Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, trường cao đẳng cần đẩy mạnh mô hình “đào tạo gắn với doanh nghiệp” thông qua hợp tác ba bên giữa nhà trường - doanh nghiệp - người học, với cơ chế rõ ràng về việc doanh nghiệp đặt hàng đào tạo, tham gia xây dựng chương trình và đảm bảo cơ hội việc làm cho người học sau tốt nghiệp.

Đồng thời, cần quy định cụ thể về ứng dụng công nghệ số, bao gồm chuẩn hạ tầng số, mô hình đào tạo kết hợp, thư viện học liệu số và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. Ngoài ra, nên bổ sung chính sách hỗ trợ đội ngũ nhà giáo như đào tạo định kỳ, thu hút chuyên gia doanh nghiệp và xây dựng lộ trình phát triển nghề nghiệp.

Việc kiểm định chất lượng cần được thực hiện theo chu kỳ, gắn với quyền mở ngành và công khai kết quả. Cuối cùng, cần tăng hỗ trợ người học thông qua quỹ học nghề, vay vốn lãi suất thấp và chính sách ưu tiên việc làm hoặc khởi nghiệp.

Trong khi đó, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghiệp Bắc Ninh cho rằng cần bổ sung một chính sách quan trọng - đó là đào tạo công bằng và cần chú trọng đến các yếu tố chuyển đổi xanh, đào tạo nhân lực cho ngành năng lượng tái tạo, giảm phát thải carbon - đây là những định hướng lớn trong tương lai.

Sơn Linh