Trường ĐH tự chủ sử dụng kinh phí NCKH sẽ gỡ được nhiều quy trình "cột chặt" lâu nay

04/08/2025 06:25
Ngọc Mai

GDVN - Nghị quyết số 57-NQ/TW sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, giúp nhà khoa học không dành quá nhiều thời gian vào các thủ tục hành chính.

Một trong những nhiệm vụ giải pháp được nêu tại Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là:

“Khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực; cải cách phương thức quản lý, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phù hợp với từng loại hình nghiên cứu; cải cách cơ chế quản lý tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ”.

Theo ghi nhận của phóng viên, lãnh đạo các cơ sở giáo dục đại học đánh giá đây là chủ trương đúng đắn, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để mở đường cho khoa học và công nghệ phát triển, nhất là hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học, viện nghiên cứu.

Cải cách cơ chế quản lý tài chính trong thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đức Viên - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Giáo dục Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Giáo sư liên ngành Nông nghiệp - Lâm nghiệp, Ủy viên Hội đồng Giáo sư Nhà nước nhiệm kỳ 2024 – 2029 bày tỏ, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, thể hiện gần đây nhất là sự ra đời của Nghị quyết số 57.

“Nghị quyết số 57 khẳng định khoa học, công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số phải được đặt lên ở vị trí “là đột phá quan trọng hàng đầu”. Với các mục tiêu đầy thách thức về phát triển khoa học và công nghệ, tăng trưởng GDP, thu nhập bình quân đầu người,... Nghị quyết số 57 đã cho thấy tầm nhìn chiến lược và quyết tâm rất cao. Để thực hiện hóa Nghị quyết số 57 trong thực tiễn, có rất nhiều việc cần làm và phải làm ngay. Trong đó có việc tháo gỡ những rào cản ở các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ,...”, thầy Viên chia sẻ.

Nghị quyết số 57 thúc đẩy xây dựng một môi trường nghiên cứu cởi mở. Trên cơ sở đó tạo lập môi trường làm việc phi hành chính, tự do nghiên cứu và mở rộng các mối quan hệ nghiên cứu, bỏ qua các cơ cấu hành chính rườm rà và thủ tục rắc rối để giúp cho hoạt động nghiên cứu, khoa học và công nghệ thực sự “cất cánh”.

Quan tâm đến hoạt động đầu tư, đầu tư công, thầy Viên cho rằng: "Khoa học và công nghệ sẽ kém hiệu quả nếu thiếu vắng sự đầu tư hợp lý của nhà nước. Trên thế giới, cơ cấu phân bổ tài chính có sự khác nhau theo từng quốc gia, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nước dành đến 80% kinh phí khoa học và công nghệ cho nghiên cứu phát triển sản phẩm. Còn ở Việt Nam, với việc quyết tâm duy trì kinh phí nghiên cứu khoa học thấp nhất bằng 2% tổng chi ngân sách nhà nước là một quyết định mang tính đột phá của Đảng và Nhà nước, tạo động lực quan trọng cho giới học thuật nói riêng và xã hội nói chung.

Từ thực tiễn, chúng ta cần xây dựng các chương trình phát triển dài hạn cho từng chuyên ngành, hay nhóm chuyên ngành khoa học thay vì cách làm “ăn đong” theo các chương trình mục tiêu ngắn hạn, chạy theo các sản phẩm cụ thể. Và việc ra đời của Nghị quyết số 57 được kỳ vọng rằng cơ chế quản lý khoa học và công nghệ sẽ dựa vào KPIs của tổ chức nghiên cứu để đặt hàng, giao nhiệm vụ với cam kết họ phải có khám phá mới, phát minh mới, sáng chế mới, sản phẩm mới”.

Cụ thể, kinh phí đầu tư phải đủ lớn và giao “một cục” (block grants), không cần cấp theo cách chi theo hạng mục (line-iterms) như với các đơn vị hành chính sự nghiệp. Hơn nữa, việc quản lý cần phải đổi mới, bởi nếu theo lối vừa hành chính, vừa thủ công có thể làm mỏi mệt và chùn bước không ít nhà khoa học chân chính.

Cùng bàn về giải pháp mà Nghị quyết số 57 đặt ra, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, với tinh thần của Nghị quyết số 57 sẽ góp phần tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, đặc biệt là trong lĩnh vực đấu thầu, mua sắm công, giúp nhà khoa học không dành quá nhiều thời gian vào các thủ tục hành chính.

thay-hoan.png
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn - Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Thầy Hoàn cho rằng, thủ tục đấu thầu mua sắm công là một lực cản đáng kể trong quá trình triển khai nghiên cứu khoa học. Với lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật, nghiên cứu khoa học thường phải đầu tư mua sắm trang thiết bị, nhưng quy trình đấu thầu kéo dài khiến nhiều đề tài bị chậm tiến độ. Trong nhiều trường hợp, nếu được áp dụng cơ chế chỉ định thầu thì việc mua sắm sẽ linh hoạt, kịp thời hơn rất nhiều, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu.

Thời gian làm hồ sơ, hoàn tất thủ tục thanh quyết toán cũng quá dài. Trong khi đó, thời gian làm nghiên cứu của nhà khoa học là hữu hạn, phải kịp tiến độ. Nếu dành phần lớn thời gian cho thủ tục, hành chính thì thời gian dành cho nghiên cứu sẽ hạn hẹp, ảnh hưởng đến chất lượng đề tài. Mục tiêu đặt ra là giảm thiểu tối đa các rào cản về thủ tục, đặc biệt là trong khâu giải ngân, thanh toán, để nhà khoa học có thể tập trung đúng vào công việc chuyên môn.

Thực tế, các trường đại học đều có phòng khoa học công nghệ để hỗ trợ về pháp lý, nhưng dù có hỗ trợ đến đâu thì quy trình đấu thầu vẫn bị “cột chặt” vào những mốc thời gian cứng theo quy định. Điều này khiến các bước triển khai bị kéo dài ngoài mong muốn.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hải Đăng - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội cũng đồng tình rằng, nhiều năm nay, các quy định liên quan đến mua sắm công, đấu thầu là rào cản lớn đối với hoạt động khoa học công nghệ.

“Việc mua sắm hóa chất phục vụ nghiên cứu là một ví dụ điển hình. Qua đấu thầu nên thủ tục rất phức tạp, mà không qua đấu thầu thì lại không đúng quy định. Cũng có những danh mục vật tư, thiết bị phục vụ nghiên cứu liên ngành mà không một nhà thầu nào đáp ứng đủ yêu cầu, trong khi việc chia gói thầu để đảm bảo tính khả thi lại không được thực hiện hoặc phải trải qua quy trình phức tạp.

Không chỉ vậy, quá trình thực hiện còn nảy sinh những tình huống tréo ngoe. Ví dụ, khi tách gói thầu để mua chuột thí nghiệm, đến lúc chuột được bàn giao thì giai đoạn thí nghiệm đã qua. Hay với sản phẩm sinh học cần sử dụng ngay thì lại phải đưa vào kho rồi mới được xuất ra, việc này mất ít nhất một ngày, thậm chí có trường hợp hàng về vào ban đêm nhưng không thể xử lý do vướng quy trình nhập, xuất kho.

Ngoài ra, việc quản lý hóa chất cũng tồn tại những bất cập. Bởi, nếu không dùng hết thì phải nhập kho, nhưng sau đó sẽ không được tái sử dụng. Trong khi nghiên cứu rất khó xác định chính xác lượng hóa chất cần dùng từ đầu. Còn nếu đăng ký số lượng ít mà sau này phát sinh nhu cầu thêm thì không thể mua bổ sung vì đã vượt danh mục phê duyệt”, thầy Đăng chia sẻ một số rào cản.

Do vậy, theo thầy Đăng, sau khi Nghị quyết số 57 ban hành, Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (có hiệu lực thi hành từ 19/02/2025) đã mang đến những thay đổi đáng kể. Trong đó, Nghị quyết 193 cho phép cơ chế khoán từng phần và đánh giá theo sản phẩm đầu ra thay vì ràng buộc chặt chẽ theo tiến độ, danh mục mua sắm như trước. Quy định này đã trao thêm quyền chủ động cho đơn vị chủ trì trong việc điều chỉnh nội dung và vật tư cần thiết trong quá trình triển khai đề tài.

usth-1.jpg

“Tôi đánh giá cao những chuyển động tích cực sau khi Nghị quyết 57 được ban hành. Đây là tín hiệu cho thấy cải cách thể chế trong khoa học đang đi đúng hướng, vấn đề còn lại là cách triển khai ra sao để thật sự đi vào cuộc sống của các nhà khoa học”, thầy Đăng bày tỏ.

Tuy nhiên, thầy Đăng cũng chỉ ra lo ngại về một số biểu hiện chưa đồng bộ trong thực tiễn. Cụ thể, hiện vẫn có đơn vị giữ yêu cầu đấu thầu hóa chất với số lượng lớn dù đề tài đang áp dụng cơ chế khoán, hoặc tiếp tục đòi hỏi hồ sơ, giấy tờ khi nhà khoa học muốn thay đổi danh mục hóa chất do phát sinh yêu cầu mới. Thực tế, nhiều đơn vị còn e ngại rủi ro về kiểm toán nên tiếp tục duy trì lối quản lý cũ, dẫn đến nguy cơ những đổi mới sẽ khó đi vào thực tiễn nếu không có hướng dẫn triển khai thống nhất, đồng bộ.

Miễn thuế đối với các doanh nghiệp có đầu tư cho NCKH là cần thiết

Về cơ chế thuế, thầy Viên cho biết, việc miễn thuế đối với các doanh nghiệp có đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đào tạo của các trường đại học là điều rất cần thiết và nên làm để khuyến khích các doanh nghiệp chung tay, chia sẻ với trường đại học trong đào tạo và nghiên cứu.

Còn theo thầy Đăng, khi các khoản chi phục vụ trực tiếp cho nghiên cứu được xác định rõ ràng trong dự toán đề tài thì sẽ không phải chịu thuế giá trị gia tăng. Đồng thời, thu nhập của cá nhân từ hoạt động nghiên cứu cũng được xem xét miễn thuế thu nhập cá nhân theo quy định mới - “đây là bước tiến đáng kể so với trước đây, khi hầu hết các khoản thu nhập dù đến từ nghiên cứu khoa học vẫn phải chịu thuế như các loại thu nhập thông thường”, thầy Đăng bày tỏ.

ad-4nxdkghth8e-c4k74pn1rxvxbx96cawb8dqb7kiiob-luuf6pm23zspxoplrjczdohoetwlclgs1abpbcqhrl0jarp2o6xopbudk072zrcunnp5okqwhodm0vavdecnzbpd1dnkmola-6246.jpg
Thầy cô Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh trong một buổi làm việc về chuyển giao công nghệ. Ảnh: Website nhà trường

Trong khi đó, thầy Hoàn nhìn nhận, trước đây, việc tính thuế trên từng khoản chi, kể cả thuế thu nhập cá nhân của nhà khoa học, khiến quá trình triển khai đề tài trở nên phức tạp. Chính vì vậy, khi các loại thuế như thuế thu nhập cá nhân, thuế dịch vụ mua sắm cho nghiên cứu được miễn theo cơ chế đặc thù,... sẽ giúp nhà khoa học tập trung tối đa nguồn lực cho chuyên môn thay vì phải tìm cách “liệu cơm gắp mắm” giữa một loạt quy định tài chính rườm rà. Đây cũng là làm cách thiết thực để thúc đẩy nghiên cứu phát triển đúng với định hướng đã nêu trong Nghị quyết số 57.

Trao quyền cho chủ nhiệm đề tài đi kèm với trách nhiệm

Giải pháp giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cũng nhận được nhiều sự quan tâm của lãnh đạo cơ sở giáo dục. Thầy Hoàn đánh giá đây là một trong những điểm mấu chốt để tháo gỡ khó khăn trong việc triển khai nhiệm vụ khoa học, trao quyền tự chủ thực sự cho chủ nhiệm đề tài/nhiệm vụ khoa học.

“Khi một đề tài được phê duyệt, chủ nhiệm đề tài sẽ phải xây dựng kế hoạch thực hiện cụ thể, đề tài có thể kéo dài 12 tháng, 18 tháng, hay 24 tháng,... tùy vào quy mô, và kèm theo đó là tiến độ giải ngân từng năng, hạng mục, nhóm tham gia. Nếu chủ nhiệm đề tài được quyền tự quyết đầy đủ trong phạm vi kế hoạch đã được thông qua, thì toàn bộ quá trình triển khai sẽ thuận lợi hơn nhiều.

Trao quyền cho chủ nhiệm đề tài thì phải đi kèm với trách nhiệm. Khi có sự cố làm trễ tiến độ, kết quả không đạt, chủ nhiệm phải chịu trách nhiệm. Còn cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản đóng vai trò hỗ trợ, bảo lãnh về mặt hành chính và pháp lý cho hoạt động nghiên cứu.

Song, các văn bản hướng dẫn thi hành cần phải rõ ràng, cụ thể, và đặc biệt là dễ áp dụng ở cơ sở”, thầy Hoàn chia sẻ.

usth.jpg
Nguồn ảnh minh họa: USTH

Cùng đưa ra quan điểm, thầy Đăng cho rằng, trước đây, sản phẩm nghiên cứu được hình dung như tài sản công, chịu sự quản lý chặt chẽ và không dễ đưa ra thị trường. Giờ đây, phần kinh phí nhà nước cấp cho nhiệm vụ khoa học được coi là một khoản đầu tư, chứ không còn bị “đóng khung” là tài sản cố định. Đơn vị chủ trì đề tài (các trường đại học, viện nghiên cứu) được trao quyền chủ động trong quản lý, khai thác, thương mại hóa sản phẩm.

“Cách đánh giá đề tài cũng đã có những điểm tích cực khi thay vì tập trung kiểm tra từng mốc tiến độ, hay soi xét vào việc thực hiện có sát với thuyết minh ban đầu hay không, thì đã chuyển sang đánh giá sản phẩm cuối cùng, nghĩa là xem kết quả có đạt mục tiêu đã đăng ký hay không. Từ đó, giảm được rất nhiều áp lực giải trình, tạo điều kiện linh hoạt hơn trong hoạt động khoa học và công nghệ, củng cố tinh thần trách nhiệm của nhà khoa học, hướng đến giá trị ứng dụng thực tiễn”, thầy Đăng chia sẻ.

Chia sẻ với phóng viên, thầy Viên cũng đánh giá cao giải pháp giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Điều này được hiểu là trưởng nhóm, hiệu trưởng, viện trưởng có toàn quyền sử dụng kinh phí cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Ở nhiều nước, nhà nước chỉ cấp kinh phí tối thiểu khởi đầu (seed money) khoảng 1/3 - 2/3, quỹ nghiên cứu khoa học của cơ sở nghiên cứu cấp vốn đối ứng (matching funds) khoảng 1/4 - 1/3 tổng kinh phí đề xuất; còn lại, nhóm nghiên cứu phải tự tìm kiếm kinh phí từ các nguồn tài trợ hợp pháp khác.

“Quá trình thực hiện một nhiệm vụ khoa học và công nghệ từ đề xuất nhiệm vụ của các nhà khoa học cho đến giao đề tài, cấp kinh phí, nghiệm thu, đánh giá, thanh quyết toán,... đều phải được thực hiện qua cổng thông tin quốc gia về khoa học và công nghệ. Nghĩa là người có quyền ra quyết định không thể gian lận, nếu đề xuất có sự trùng lặp với các đề xuất trước đó, hệ thống sẽ thông báo chi tiết ngay.

Chính vì thế, với Nghị quyết số 57, việc giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ là bước đột phá, giúp cơ sở tạo lập được môi trường nghiên cứu dân chủ, tự quyết. Ví dụ như trưởng nhóm nghiên cứu có quyền quyết định chế độ lương, thưởng, tuyển dụng hay thải hồi thành viên theo chiến lược và định hướng phát triển nhóm”, thầy Viên chia sẻ.

Ngọc Mai