CSGDĐH nêu rào cản khiến thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu còn gặp khó khăn

03/08/2025 06:29
Yên Đan

GDVN - Nhiều CSGDĐH tích cực hợp tác với doanh nghiệp nhưng không ít doanh nghiệp vẫn dè dặt trong việc đặt hàng nghiên cứu hay tài trợ cho dự án khoa học.

Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia nêu: “Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo”.

Theo lãnh đạo nhiều trường đại học, mặc dù đã nỗ lực hợp tác với doanh nghiệp, nhưng việc doanh nghiệp chủ động đặt hàng nghiên cứu hay tài trợ dự án khoa học vẫn còn hạn chế vì nhiều lý do.

Thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu giữa trường đại học và doanh nghiệp còn hạn chế

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Lê Hoàng Tân - Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) nhận định, việc phát triển các trường đại học và viện nghiên cứu đóng vai trò là những chủ thể nghiên cứu mạnh là hoàn toàn phù hợp. Bởi chỉ khi các đơn vị này được trao quyền, có cơ chế rõ ràng, được đầu tư bài bản mới có thể tạo ra những sản phẩm khoa học công nghệ thực sự có giá trị và khả năng thương mại hóa cao.

nghien-cuu-khoa-hoc.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đoàn Lê Hoàng Tân - Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: website nhà trường

Theo thầy Tân, hiện tại, đơn vị đã tham gia vào hệ thống hợp tác trong nước và quốc tế, trong đó có sự kết nối với các trường đại học thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, đơn vị cũng bước đầu thiết lập mối quan hệ hợp tác với một số doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, phần lớn các mối quan hệ hợp tác này đang ở giai đoạn tiếp cận, xác định điểm chung và nhu cầu thực sự của doanh nghiệp mà phía đơn vị nghiên cứu có thể hỗ trợ. Trong một số trường hợp cụ thể, đơn vị đã hỗ trợ doanh nghiệp về mặt phân tích chuyên sâu, đưa ra các giải pháp công nghệ phù hợp với nhu cầu thực tế của họ. Ngược lại, doanh nghiệp cũng tham gia góp ý, đồng hành trong việc hoàn thiện sản phẩm vật liệu, công nghệ mà phía đơn vị đang phát triển.

“Tuy vậy, quá trình thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề lớn nhất là sự khác biệt trong tư duy và cách tiếp cận giữa giới nghiên cứu và doanh nghiệp. Trong khi phía nghiên cứu thường tập trung vào giá trị học thuật, thì doanh nghiệp quan tâm đến tính ứng dụng, chi phí đầu tư, lợi nhuận và mức độ rủi ro khi đưa sản phẩm ra thị trường. Chính sự chênh lệch trong quan điểm này đã khiến cho việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu vẫn còn gặp rào cản.

Bên cạnh đó, các sản phẩm nghiên cứu được phát triển từ nguồn vốn công, chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, nên khi chuyển giao cho doanh nghiệp, việc xác định giá trị để mua bán bản quyền công nghệ là điều không đơn giản. Khác với những mặt hàng hữu hình, công nghệ là tài sản trí tuệ đặc thù, có độ rủi ro cao vì phụ thuộc vào sự thay đổi nhanh chóng của thị trường, khả năng ứng dụng và cả năng lực tiếp nhận của doanh nghiệp. Đơn cử có những sản phẩm rất tiềm năng về mặt học thuật, nhưng khi đưa ra thực tế lại không phù hợp với nhu cầu, hoặc không mang lại hiệu quả như kỳ vọng. Vì vậy, doanh nghiệp thường rất dè dặt, còn các đơn vị nghiên cứu cũng gặp khó khăn khi định giá đảm bảo sát thực tế.

Ngoài ra, cơ chế tài chính và thủ tục hành chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học cũng là vấn đề khiến nhiều nhà khoa học còn e ngại. Việc giải ngân chậm, nhiều khâu trung gian, yêu cầu hồ sơ phức tạp khiến các dự án nghiên cứu bị kéo dài, làm giảm động lực sáng tạo và gây ảnh hưởng đến tiến độ hợp tác với các đơn vị bên ngoài”, thầy Tân nêu quan điểm.

Cùng bàn vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Anh Tuân - Trưởng khoa Khoa Vật liệu hóa học ứng dụng, Trường Vật liệu (Đại học Bách khoa Hà Nội) nhận định, việc phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo là định hướng phù hợp với xu thế quốc tế, song để thực hiện hiệu quả trong thực tiễn, đặc biệt ở trong trường đại học vẫn còn nhiều vấn đề cần được tháo gỡ.

Theo thầy Tuân, hiện nay tại khoa, các đề tài nghiên cứu khoa học chủ yếu vẫn được triển khai thông qua các chương trình cấp Nhà nước, sử dụng nguồn ngân sách công. Đây là hướng đi chính thống và bền vững, nhưng tính ứng dụng và khả năng thương mại hóa chưa thực sự cao. Một số đề tài có liên kết với doanh nghiệp, tuy nhiên còn rất hạn chế. Việc doanh nghiệp trực tiếp đặt hàng các đề tài nghiên cứu hoặc cùng đầu tư triển khai vẫn chưa thực sự phát triển. Một trong những rào cản là do điều kiện cơ sở vật chất của khoa hiện nay vẫn chưa đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ doanh nghiệp.

“Hiện đơn vị vẫn luôn chú trọng mở rộng quan hệ hợp tác với các viện nghiên cứu chuyên ngành cũng như các doanh nghiệp trong lĩnh vực chuyên môn. Những hợp tác này đã và đang tạo nền tảng giúp các giảng viên và sinh viên trong khoa tiếp cận với các hướng nghiên cứu thực tiễn, đồng thời hỗ trợ đào tạo theo định hướng ứng dụng.

Bên cạnh đó, mặc dù các đề tài nghiên cứu vẫn được triển khai đều đặn, nhưng những rào cản về thủ tục giải ngân, quy trình thanh quyết toán còn phức tạp khiến cho quá trình thực hiện đề tài mất nhiều thời gian và công sức, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cũng như tiến độ nghiên cứu. Không chỉ riêng khoa mà nhiều đơn vị khác trong trường, thậm chí là các trường đại học khác cũng đang gặp phải tình trạng tương tự. Việc này dẫn đến tâm lý ngại đăng ký đề tài hoặc chọn đề tài ở mức vừa phải, dễ thực hiện, thay vì mạnh dạn triển khai các nghiên cứu có hàm lượng khoa học cao, quy mô lớn, cần vốn đầu tư lớn.

Nhìn chung, Nghị quyết 57 đã đặt ra những định hướng rất đúng và trúng, vấn đề cốt lõi là ở khâu cụ thể hóa. Theo tôi, cần có các nghị định, thông tư hướng dẫn chi tiết, đặc biệt là về cơ chế tài chính, chính sách khuyến khích nhà khoa học và cơ chế phối hợp ba bên giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp. Song song với đó, các đơn vị cần tạo ra môi trường thuận lợi để nhà khoa học có thể toàn tâm toàn ý làm nghiên cứu mà không bị vướng vào quá nhiều thủ tục hành chính hay áp lực tài chính. Đồng thời, các trường cần đầu tư mạnh mẽ hơn cho hạ tầng nghiên cứu”, thầy Tuân nêu quan điểm.

Các trường đại học cần đảm bảo được 3 yếu tố nền tảng: Nhân lực, tài lực và vật lực

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thành Tiên - Phó Trưởng khoa Khoa Khoa học tự nhiên, Đại học Cần Thơ, việc thực hiện mục tiêu thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Tại Nhà trường, mặc dù có sự quan tâm và khuyến khích nghiên cứu ứng dụng, quá trình chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu vẫn vướng nhiều rào cản về cơ chế.

Trong đó, các quy định liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, phân chia lợi nhuận, định giá sản phẩm nghiên cứu hay cơ chế tự chủ tài chính trong các trường đại học công lập, hiện vẫn chưa đủ linh hoạt và minh bạch để khuyến khích các nhà khoa học mạnh dạn đưa sản phẩm ra thị trường.

Theo thầy Tiên, mức độ khó khăn trong việc thương mại hóa còn phụ thuộc rất lớn vào đặc thù của từng lĩnh vực nghiên cứu. Những ngành có tính công nghệ rõ rệt, tạo ra sản phẩm cụ thể như thiết bị, phần mềm, mô hình kỹ thuật… thì việc chuyển giao, hợp tác với doanh nghiệp và đưa ra thị trường sẽ dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, với những lĩnh vực nghiên cứu mang tính hàn lâm hoặc đặc thù như khoa học xã hội, lý luận, hoặc những ngành khó đo lường bằng sản phẩm vật chất thì rất khó để thương mại hóa hiệu quả. Do đó, khi triển khai chủ trương từ Nghị quyết 57, các đơn vị cũng cần có những cách tiếp cận linh hoạt, phù hợp với đặc điểm từng ngành, thay vì áp dụng một mô hình chung.

image7.jpg
Đại học Cần Thơ chú trọng thực hành cho sinh viên. Ảnh: website nhà trường

“Về phía Nhà trường, việc xây dựng đội ngũ giảng viên chất lượng cao đóng vai trò then chốt trong việc hiện thực hóa các mục tiêu khoa học và đổi mới sáng tạo. Trường đã chủ động ban hành nhiều cơ chế để thu hút nhân lực chất lượng, trong đó đặc biệt chú trọng tới yếu tố chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn.

Hàng năm, trường còn dành riêng một phần ngân sách khoảng 5% để cử giảng viên đi học tập, trao đổi tại nước ngoài. Việc này không chỉ giúp giảng viên nâng cao năng lực mà còn mở rộng kết nối quốc tế, học hỏi mô hình nghiên cứu, đào tạo tiên tiến từ các quốc gia phát triển. Đây là điểm khác biệt tạo nên thế mạnh cạnh tranh cho nhà trường trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời góp phần thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu ứng dụng", thầy Tiên nêu quan điểm.

Tuy nhiên, thầy Tiên cho biết, để có thể trở thành trung tâm nghiên cứu mạnh, có tính ứng dụng cao như định hướng của Nghị quyết 57, các trường cần tăng cường hợp tác với doanh nghiệp. Hiện nay, Nhà trường đã có một số hoạt động hợp tác với doanh nghiệp, tuy nhiên, không ít doanh nghiệp vẫn còn dè dặt trong việc đặt hàng nghiên cứu hay tài trợ cho các dự án khoa học. Một phần vì chưa tin tưởng vào năng lực thực thi, một phần vì thiếu cơ chế phối hợp minh bạch, rõ ràng giữa Nhà trường, nhà khoa học và doanh nghiệp.

Do đó, trong thời gian tới, cơ quan quản lý cần xem xét bổ sung, điều chỉnh các cơ chế giúp tạo hành lang pháp lý thông thoáng để các trường đại học thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo có năng lực cạnh tranh.

Đồng quan điểm trên, thầy Tân bày tỏ, để tháo gỡ những rào cản về cơ chế tài chính và thủ tục hành chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học, đơn vị đang từng bước xây dựng chiến lược rõ ràng hơn trong việc phát triển sản phẩm nghiên cứu. Một trong những hướng đi trọng tâm là tập trung vào việc đăng ký bằng sáng chế cho các kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng cao. Khi có sáng chế được công nhận và quyền sở hữu trí tuệ, việc đàm phán, chuyển giao công nghệ với doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn.

“Để thực hiện hóa những mục tiêu từ Nghị quyết 57, theo tôi cần đảm bảo được 3 yếu tố nền tảng: nhân lực, tài lực và vật lực.

Trước hết là đội ngũ nhân lực phải có những nhà nghiên cứu giỏi, đam mê, sẵn sàng theo đuổi con đường dài hạn. Nghiên cứu khoa học không thể làm ngắn hạn mà cần một quá trình tích lũy lâu dài, bền bỉ.

Thêm vào đó, Nhà nước cần có chính sách đầu tư đủ mạnh và ổn định cho các hoạt động nghiên cứu, nhất là nghiên cứu ứng dụng. Đồng thời, cơ sở vật chất như các thiết bị, phòng thí nghiệm và hạ tầng kỹ thuật là công cụ lao động thiết yếu để các nhà khoa học hiện thực hóa ý tưởng của mình.

Mặc dù con đường hợp tác với các đơn vị tư nhân còn nhiều khó khăn, nhưng đơn vị vẫn đang nỗ lực từng bước tháo gỡ. Việc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với doanh nghiệp, giải quyết từng vấn đề cụ thể là cách mà đơn vị đang làm để tiến đến hợp tác thực chất. Tôi tin rằng Nghị quyết 57 sẽ tạo ra những chuyển biến tích cực cho toàn hệ thống khoa học công nghệ quốc gia”, thầy Tân nhấn mạnh.

Yên Đan