Công bố quốc tế của ứng viên PGS Trần Trọng Đạo tăng vọt: Chuyên gia cho rằng cần thẩm định kỹ lưỡng

11/09/2025 06:32
Mai Anh

GDVN - Việc ứng viên là nhà quản lý, có ồ ạt công bố quốc tế trong thời gian ngắn và là tác giả chính của hầu hết các công trình là dấu hiệu bất thường.

Vừa qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng tải một số bài viết phản ánh băn khoăn của độc giả về kết quả đào tạo và nghiên cứu khoa học của Tiến sĩ Trần Trọng ĐạoHiệu trưởng Trường Đại học Tôn Đức Thắng, ứng viên đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư năm 2025 tại Hội đồng Giáo sư ngành Điện – Điện tử – Tự động hóa.

Theo số liệu, từ năm 2010 (sau khi bảo vệ tiến sĩ) đến nay, thầy Đạo đã công bố 29 bài báo khoa học trong và ngoài nước. Đáng chú ý, từ năm 2024 đến nửa đầu năm 2025, thầy có 13 công bố, trong đó 5 bài thuộc kỷ yếu hội thảo quốc tế AETA do trường tổ chức.

Cụ thể hơn, riêng năm 2024, thầy Đạo có 7 bài được xuất bản (bao gồm các bài thuộc danh mục Scopus Q3, Q4 và tạp chí trong nước được Hội đồng Giáo sư Nhà nước tính điểm). Và chỉ trong 6 tháng đầu năm 2025, thầy Đạo tiếp tục có 6 bài báo quốc tế (thầy là tác giả chính 5 bài), trong đó 2 bài Q1 SCIE/Scopus, 2 bài ESCI và 2 bài kỷ yếu Scopus Q4. Tính trung bình 6 tháng đầu năm 2025, thầy Đạo công bố mỗi tháng 1 bài báo quốc tế.

thay-dao-1.jpg
Kết quả công bố khoa học của Tiến sĩ Trần Trọng Đạo từ năm 2008 đến nay (tổng: 32 bài báo khoa học). Biểu đồ: Nguyễn Minh.

Ngoài thành tích nghiên cứu, ba năm học gần đây, số giờ giảng trực tiếp trên lớp của thầy Đạo đều vượt xa so với định mức.

thay-dao.png
Kết quả tham gia đào tạo của Tiến sĩ Trần Trọng Đạo trong 6 năm học gần đây. Ảnh chụp màn hình.

Sau khi loạt bài viết được đăng tải, một số độc giả bày tỏ băn khoăn về trường hợp ứng viên vừa đảm nhận vị trí quản lý, vừa liên tiếp có nhiều công bố quốc tế với vai trò là tác giả chính.

Theo Luật Giáo dục đại học 2012 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2018, hiệu trưởng là người đại diện pháp luật, đồng thời giữ vai trò chủ tài khoản của cơ sở giáo dục đại học. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành toàn diện các hoạt động chuyên môn, học thuật, nhân sự, tài chính, tài sản cũng như hợp tác trong và ngoài nước theo quy định pháp luật và quyết định của hội đồng trường.

Hiệu trưởng có quyền trình và ban hành các văn bản quản lý nội bộ, đề xuất nhân sự quản lý để hội đồng trường xem xét, đồng thời trực tiếp quyết định các vị trí khác theo thẩm quyền. Hằng năm, Hiệu trưởng phải báo cáo kết quả công tác, tình hình tài chính, tài sản của nhà trường trước hội đồng trường; thực hiện công khai, minh bạch và chịu sự giám sát, thanh tra của cơ quan có thẩm quyền.

Hiệu trưởng chịu trách nhiệm toàn diện trước pháp luật, hội đồng trường và các bên liên quan về việc thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm giải trình đầy đủ trong phạm vi quyền hạn được giao.

Ứng viên là tác giả chính của nhiều công bố trong thời gian ngắn liệu có bất thường?

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên bày tỏ, về mặt khách quan, việc một nhà khoa học và đồng thời là nhà quản lý có nhiều công bố với tư cách là tác giả chính trong một thời gian ngắn “tất nhiên là bất thường” - thầy Hùng nói.

Bởi, để có được bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế uy tín là không hề đơn giản, đòi hỏi cả thời gian và công sức nghiên cứu. Ví dụ, với một bài báo thuộc nhóm Q1 hoặc Q2, tác giả thường cần tối thiểu khoảng ba tháng mới có thể hoàn thiện và được chấp nhận đăng, có trường hợp còn lâu hơn thế.

Do đó, thầy Hùng cho rằng, hội đồng giáo sư ngành, liên ngành cần nhận diện và xem xét kỹ lưỡng trong quá trình xét duyệt những hồ sơ ứng viên có dấu hiệu bất thường. Nhất là với những hồ sơ của ứng viên nào có số lượng công bố khoa học tăng đột biến trong thời gian ngắn và gần đến hạn nộp hồ sơ đăng ký xét tiêu chuẩn chức danh, hoặc những trường hợp ứng viên vừa là nhà quản lý, đồng thời cũng là tác giả chính của nhiều công trình công bố quốc tế.

Được biết, trước đó trong đợt xét công nhận giáo sư, phó giáo sư năm 2024, Tiến sĩ Trần Trọng Đạo được Hội đồng Giáo sư cơ sở Trường Đại học Tôn Đức Thắng đề nghị Hội đồng Giáo sư nhà nước xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư. Tuy nhiên, tại vòng xét duyệt của Hội đồng Giáo sư liên ngành Điện - Điện tử - Tự động hóa, ứng viên Trần Trọng Đạo không nhận đủ số phiếu tín nhiệm.

Cùng chia sẻ, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hải - Ủy viên Hội đồng Giáo sư liên ngành Chăn nuôi - Thú y - Thủy sản năm 2025 bày tỏ, về nguyên tắc, tất cả hồ sơ ứng viên đều được hội đồng thẩm định chặt chẽ trước khi đưa ra quyết định.

Về công bố quốc tế, thầy Hải cho rằng, những bài báo đăng trên tạp chí quốc tế có mức độ uy tín càng cao thì công sức của tác giả bỏ ra càng nhiều. Nhưng công sức đó không phải chỉ của một người, mà là nhiều người; giống như việc nhiều người cùng đổ nước vào một chiếc ly thì sẽ nhanh đầy, còn nếu chỉ một người thì phải mất rất lâu.

Khi các hội đồng làm việc, thành viên trong hội đồng sẽ phải xem xét kỹ hồ sơ của ứng viên giáo sư, phó giáo sư thì mới đưa ra nhận xét, hoặc có ý kiến.

Cẩn trọng xem xét hồ sơ có số lượng bài báo vượt trội trong thời gian ngắn

Trong khi đó, chủ tịch một hội đồng giáo sư ngành năm 2025 (đề nghị không nêu tên) cho biết, với những trường hợp ứng viên dồn công bố quốc tế vào giai đoạn cuối trước khi xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư cũng phần nào cho thấy dấu hiệu cơ hội trong khoa học.

Vị này cũng băn khoăn rằng, có những ứng viên nhiều năm trước có ít, hoặc gần như “vắng bóng” công trình nghiên cứu, nhưng đến sát thời điểm nộp hồ sơ lại công bố hàng loạt bài báo quốc tế, liệu có phải ứng viên đó chỉ làm khoa học nhằm phục vụ mục tiêu đạt chức danh hơn là vì học thuật?

Công bố khoa học phải gắn với đề tài nghiên cứu cụ thể và nguồn lực tài chính minh bạch. Nếu phần lớn bài báo dựa vào đề tài cấp cơ sở, vốn kinh phí hạn chế, nhưng lại cho ra số lượng lớn công bố thì khó có cơ sở thuyết phục.

Chưa kể, một bài báo Q1, Q2 thường cần quá trình nghiên cứu kéo dài, thậm chí nhiều năm, cùng với giai đoạn phản biện và chỉnh sửa công phu. Vì vậy, việc ứng viên có ồ ạt các công bố quốc tế trong thời gian ngắn và là tác giả chính của hầu hết các công trình là dấu hiệu bất thường. Nếu xác định được rằng ứng viên chỉ chạy theo thành tích vào những năm cuối, gần đến thời hạn nộp hồ sơ đăng ký, thì cần phải xem xét loại bỏ, bởi động cơ này không xuất phát từ khoa học.

“Với trường hợp ứng viên nào làm khoa học không vì học thuật mà vì chức danh thì hội đồng cần thẳng thắn loại bỏ. Ứng viên có quyền công bố nhiều công trình quốc tế, nhưng với tư cách của một nhà khoa học nghiêm túc”, vị này chia sẻ thêm.

Mặt khác, chia sẻ với phóng viên, thư ký một hội đồng giáo sư ngành năm 2025 nhìn nhận rằng, thực tế có không ít ứng viên chỉ thực sự tập trung làm nghiên cứu, viết bài báo khoa học khi có áp lực hồ sơ, trong khi những năm trước bận rộn giảng dạy hoặc chưa có động lực.

Ở Việt Nam, kinh phí nghiên cứu cũng hạn chế hơn so với nước ngoài nên việc duy trì công bố đều đặn hàng năm là rất khó. Tuy vậy, với những hồ sơ ứng viên có số lượng bài báo vượt trội trong thời gian ngắn vẫn cần được xem xét cẩn trọng. Điều đáng nói là phải làm rõ được vai trò của ứng viên trong các nhóm nghiên cứu, nguồn số liệu và đề tài phục vụ công bố, đặc biệt với những trường hợp ứng viên đứng tên tác giả chính.

“Xuất bản quốc tế, nhất là ở các tạp chí uy tín, không phải chuyện đơn giản. Thông thường hồ sơ ứng viên nào vừa có tròn trịa 2-3 bài báo uy tín/năm thì chất lượng chuẩn mực, đúng đắn, và đầy đủ. Còn những hồ sơ ứng viên nào có càng nhiều bài báo quốc tế thì càng phức tạp, hội đồng phải thẩm định kỹ.

Thực tế, với những ứng viên là người vừa làm quản lý (ví dụ như hiệu trưởng, trưởng khoa,...), vừa làm khoa học, họ thường có nhiều thuận lợi hơn trong công bố. Chẳng hạn, một hiệu trưởng sẽ dễ dàng hợp tác với nhiều nhóm nghiên cứu khác nhau, nhờ đó quá trình nghiên cứu, xuất bản, công bố khoa học của họ cũng trở nên thuận lợi hơn. Do đó, với những trường hợp đặc biệt như vậy, hội đồng càng xem xét kỹ và đứng trên góc độ nhà khoa học, liên chính học thuật để đánh giá.

Hội đồng là nơi “cầm cân nảy mực”, vừa khách quan, chặt chẽ về mặt học thuật, vừa nhân văn trong cách xử lý. Chính vì vậy, nếu hồ sơ ứng viên có điểm gì chưa rõ, ứng viên sẽ được yêu cầu giải trình. Nếu ứng viên giải trình hợp lý thì được xem xét tiếp, còn nếu chưa thuyết phục thì với tư cách của "nhà khoa học chân chính" họ sẽ tự xin rút hồ sơ để suy nghĩ, có thể đăng ký tiếp vào năm sau", thư ký hội đồng chia sẻ.

Cũng theo vị này, hội đồng xét duyệt hiện nay chỉ đánh giá về mặt khoa học, còn đạo đức là khía cạnh khó lượng hóa, đòi hỏi bản thân nhà khoa học phải tự suy nghĩ và nhận thức. Các hội đồng luôn mong muốn tìm được những ứng viên giáo sư, phó giáo sư có tinh thần cống hiến cho xã hội. Vì vậy, dù cho ứng viên đạt "100 điểm khoa học" nhưng thiếu trung thực, không sẵn sàng nhận nhiệm vụ cống hiến vì lợi ích chung của xã hội thì cũng khó được công nhận chức danh.

Chi tiết 6 bài báo công bố nửa đầu năm 2025 của Tiến sĩ Trần Trọng Đạo, trong đó có 5/6 công trình làm tác giả chính:

1. Bài: “Decentralized Frequency Regulation by Using Novel PID Sliding Mode Structure in Multi-Area Power Systems With Hydropower Turbines” (công bố tháng 1/2025).

Công bố trên tạp chí IEEE Access (ISSN: 2169-353), thuộc danh mục SCIE (cơ sở dữ liệu của Web of Science), với chỉ số ảnh hưởng IF = 3.4 (2023), nghĩa là trung bình mỗi bài báo trên tạp chí này được trích dẫn 3,4 lần trong năm 2023), và được xếp vào nhóm Q1 năm 2025 (25% tạp chí có uy tín hàng đầu trong lĩnh vực).

Nhóm tác giả gồm: Dao Trong Tran; Anh-Tuan Tran; van van Huynh; Ton Duc do

2. Bài Load Frequency Control Based on Gray Wolf Optimizer Algorithm for Modern Power Systems” (công bố tháng 2/2025).

Công bố trên tạp chí Energies (ISSN: 1996-1073), thuộc danh mục SCIE. Tạp chí có chỉ số IF = 3.0 (năm 2023), và được xếp Q1 năm 2024.

Nhóm tác giả gồm: Dao Huy Tuan, Dao Trong Tran,Van Nguyen Ngoc Thanh, Van Van Huynh.

3. Bài: “The impacts of electric charging stations on distribution power grids under different simulations using jellyfish swarm algorithm” (công bố tháng 3/2025).

Công bố trên tạp chí Advances in Electrical and Electronic Engineering (AEEE) (ISSN: 1804-3119), thuộc danh mục ESCI (Emerging Sources Citation Index, cũng nằm trong hệ thống Web of Science). Theo dữ liệu năm 2024, tạp chí này được xếp Q3 (nhóm trung bình trong lĩnh vực).

Nhóm tác giả gồm: Dao Trong TRAN, Minh Phuc DUONG

4. Bài: “Maximize the total electric sale profit for a hybrid power plant with fifteen thermal units and a 100-MW solar photovoltaic farm under a 20-year power generation project” (công bố tháng 4/2025).

Công bố trên tạp chí International Journal of Renewable Energy Development (IJRED) (p-ISSN: 2252-4940, e-ISSN: 2716-4519), thuộc danh mục ESCI. Theo số liệu năm 2024, tạp chí được xếp Q2 (thuộc nhóm 25%–50% trong hệ thống phân hạng của Scopus)

Nhóm tác giả gồm: Dao Trong Tran, Thang Trung Nguyen

5. Bài: “Zebra Optimization Algorithm for Dealing with Large-Scale Economic Load Dispatch Considering Renewable Energy Sources” (công bố tháng 6/2025).

Đăng trong kỷ yếu khoa học Lecture Notes in Electrical Engineering (LNEE), thuộc danh mục Scopus. Theo dữ liệu năm 2024, kỷ yếu này được xếp Q4 (thuộc nhóm 75%–100% trong hệ thống phân hạng của Scopus).

Nhóm tác giả gồm: Tran Trong Dao, Minh Duong Phuc

6. Bài: “Optimal Solar Photovoltaic Power Plant Placement to Minimize Used Energy Costs” (công bố tháng 6/2025).

Cũng đăng trong kỷ yếu Lecture Notes in Electrical Engineering (thuộc chuỗi hội thảo quốc tế Recent Advances in Electrical Engineering and Related Sciences: Theory and Application – AETA 2023), thuộc danh mục Scopus. Theo dữ liệu năm 2024, kỷ yếu này được xếp Q4.

Nhóm tác giả gồm: Dao Trong Tran & Tan Minh Phan

Tiến sĩ Trần Trọng Đạo là Chủ tịch danh dự của Hội thảo AETA 2023, đồng thời là đồng chủ biên của kỷ yếu Recent Advances in Electrical Engineering and Related Sciences: Theory and Application – AETA 2023.

Scopus ra đời năm 2004, do Nhà xuất bản Elsevier (Hà Lan) phát triển. Trong khi đó, WoS có lịch sử lâu đời hơn, hiện do Clarivate Analytics (trước đây là Thomson Reuters) quản lý. Điểm chung của cả hai hệ thống là đều cung cấp dữ liệu trích dẫn, giúp các nhà khoa học và cơ quan quản lý đo lường mức độ ảnh hưởng của một công trình hay tạp chí.

Trong hệ thống WoS, ngoài ba bộ sưu tập “chính thống” gồm SCIE/SCI (khoa học tự nhiên, kỹ thuật, y dược), SSCI (khoa học xã hội) và A&HCI (nghệ thuật - nhân văn), Clarivate từ năm 2015 đã bổ sung thêm ESCI (Emerging Sources Citation Index).

ESCI là danh mục tập hợp các tạp chí “nguồn mới nổi” (emerging sources), được Clarivate đưa vào hệ thống từ năm 2015. Đây là những tạp chí chưa đủ điều kiện để được xếp vào SCIE/SCI, SSCI hay A&HCI, nhưng đã đáp ứng các tiêu chí cơ bản về biên tập, minh bạch học thuật, và có tiềm năng phát triển. ESCI vì vậy được xem là “bậc thềm” để các tạp chí hướng tới việc được thăng hạng vào các chỉ số WoS chính.

Khác với WoS, Scopus nổi bật nhờ hệ thống xếp hạng dựa trên chỉ số SCImago Journal Rank (SJR), phản ánh uy tín của tạp chí thông qua số lần và chất lượng trích dẫn. Các tạp chí trong Scopus thường được chia thành 4 nhóm (Q1 đến Q4).

Trong đó: Q1 thuộc nhóm 25% tạp chí có SJR cao nhất (chất lượng tốt nhất), Q2 thuộc nhóm 25% tiếp theo, Q3 thuộc nhóm trung bình thấp, Q4 thuộc nhóm 25% thấp nhất.

Việc một tạp chí được xếp Q1, Q2, Q3 hay Q4 cho thấy mức độ ảnh hưởng và uy tín trong lĩnh vực khoa học, thường được cộng đồng nghiên cứu quốc tế sử dụng khi đánh giá chất lượng công bố.

Mai Anh