Kỳ vọng hợp tác và đầu tư ở GDĐH sẽ khởi sắc khi được quy định 2 điều riêng ở dự thảo Luật

24/09/2025 06:30
Hồng Linh

GDVN - Nhằm khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục, cần có chính sách ưu đãi rõ ràng về tài chính, thuế, tín dụng và đất đai cho các dự án.

Tại Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi (bản tháng 09/2025), các nội dung liên quan đến hợp tác và đầu tư được quy định ở Chương VIII với 2 điều là Điều 43 (Hợp tác và liên kết); Điều 44 (Đầu tư trong giáo dục đại học).

Đại diện trường đại học kỳ vọng quy định mới trong Dự thảo Luật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hợp tác và đầu tư của nhà trường, bên cạnh đó, cũng cần thêm những chính sách đồng bộ khác để thực hiện một cách hiệu quả.

Quy định mới trao nhiều quyền chủ động hơn cho cơ sở giáo dục

Chia sẻ về các hoạt động hợp tác của đơn vị, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng cho biết: “Trong quá trình triển khai các hoạt động hợp tác đặc biệt là hợp tác quốc tế, thuận lợi lớn nhất của nhà trường là sự quan tâm, đồng hành của đối tác và nhu cầu thực tế của người học đối với các chương trình quốc tế hóa. Điều đó tạo động lực để giảng viên không ngừng nâng cao năng lực, tiếp cận công nghệ mới và môi trường học thuật đa chiều.

Tuy nhiên, khó khăn đáng kể chính là các rào cản về thủ tục pháp lý, sự phức tạp trong công nhận bằng cấp, khác biệt về chuẩn kiểm định chất lượng và hệ thống tín chỉ giữa các quốc gia. Ngoài ra, rào cản ngôn ngữ, chính sách visa và nguồn lực tài chính cũng ảnh hưởng đến mức độ mở rộng hợp tác.

Nói cách khác, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay vẫn nằm ở sự thiếu đồng bộ về cơ chế pháp lý và cơ chế công nhận lẫn nhau, điều mà Dự thảo Luật lần này đang hướng tới tháo gỡ".

Thầy Minh nhận xét, việc Dự thảo Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi) bổ sung và tách bạch rõ giữa hợp tác, liên kết đào tạo và đầu tư là bước tiến quan trọng trong hoàn thiện hành lang pháp lý. Khi cơ chế được nới rộng, các trường đại học sẽ có nhiều quyền chủ động hơn trong lựa chọn và triển khai hợp tác.

Đối với Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, điều này mở ra khả năng đa dạng hóa mô hình liên kết đào tạo, tăng cường trao đổi quốc tế, thu hút doanh nghiệp, viện nghiên cứu tham gia vào các hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Quan trọng hơn, cơ chế thông thoáng đi đôi với nguyên tắc trách nhiệm giải trình sẽ giúp hợp tác quốc tế đi vào thực chất, gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo và hội nhập sâu vào mạng lưới giáo dục toàn cầu.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NVCC.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Văn Minh, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NVCC.

Theo quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Thị Thanh Thủy - Trưởng phòng Phòng Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, Dự thảo Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi) nhấn mạnh việc mở rộng cơ chế, chính sách theo hướng tăng quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình cho các cơ sở giáo dục đại học.

Trọng tâm là chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm, đơn giản hóa và tích hợp nhiều thủ tục, phấn đấu giảm 45% thủ tục hành chính và rút ngắn 30% thời gian xử lý.

Chính sách cũng mở rộng khung pháp lý cho các phương thức đào tạo linh hoạt (trực tuyến, kết hợp, mô-đun, tín chỉ mở), công nhận kết quả học tập ngoài chính quy.

Dự thảo Luật còn khẳng định trường đại học là trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khuyến khích hợp tác công - tư, thu hút nguồn lực xã hội, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và có cơ chế ưu đãi đặc thù để thu hút giảng viên, nhà khoa học xuất sắc.

“Tôi cho rằng việc sửa đổi Luật Giáo dục Đại học lần này sẽ mang lại những giá trị thiết thực cho học viện nói riêng và hệ thống giáo dục đại học nói chung. Cơ chế tự chủ được mở rộng giúp học viện có thêm quyền chủ động trong xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và quản trị nguồn lực.

Điều đó cho phép các trường linh hoạt hơn trong việc thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tiễn của thanh thiếu niên cũng như yêu cầu đổi mới của công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn hiện nay.

Việc tinh giản thủ tục hành chính cũng giúp học viện tiết kiệm thời gian, chi phí, tập trung nguồn lực cho nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu. Các chính sách thu hút, đãi ngộ giảng viên, nhà khoa học xuất sắc sẽ tạo điều kiện để học viện chiêu mộ được đội ngũ chuyên gia uy tín, góp phần nâng tầm chất lượng đào tạo.

Quan trọng hơn, người học sẽ được hưởng lợi từ các chương trình linh hoạt, hiện đại, có sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, từ đó hình thành đội ngũ cán bộ Đoàn, Hội, Đội có trình độ, bản lĩnh và khả năng hội nhập quốc tế tốt hơn trong tương lai” - cô Thủy phân tích.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Tiến sĩ Hồ Thanh Trí - Viện trưởng Viện quốc tế, Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh thông tin, trong quá trình triển khai các chương trình liên kết đào tạo quốc tế, nhà trường có nhiều thuận lợi.

Đơn vị được hưởng lợi từ chính sách hội nhập giáo dục đại học của Nhà nước; nhà trường có quy mô đào tạo lớn và uy tín trong một số ngành mũi nhọn, đặc biệt mạng lưới đối tác quốc tế của nhà trường ngày càng đa dạng cung cấp nhiều cơ hội học tập và việc làm ngoài nước dành cho sinh viên; cùng với nhu cầu học tập và hội nhập quốc tế ngày càng cao của sinh viên khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.

Mặc dù vậy, trong các chương trình liên kết quốc tế, Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cũng gặp không ít khó khăn như rào cản về ngoại ngữ và năng lực học tập của sinh viên; chi phí học tập, sinh hoạt tại nước ngoài còn cao; sự khác biệt về chương trình và quản lý giữa các trường; năng lực triển khai của đội ngũ quản lý và giảng viên cần tiếp tục được nâng cao và áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các trường đại học khác cũng có chương trình liên kết tương tự.

Thầy Trí chỉ ra, việc cơ chế, chính sách được nới rộng như trong Dự thảo Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi) là bước tiến quan trọng, tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các trường đại học. Quy định mới phân định rõ chính sách hợp tác, liên kết và đầu tư sẽ giảm bớt thủ tục hành chính chồng chéo, giúp quá trình phê duyệt diễn ra nhanh gọn và minh bạch hơn.

Về lâu dài, đây là cơ hội để đơn vị mở rộng mạng lưới đối tác quốc tế, đa dạng hóa mô hình liên kết (2+2, 3+1, 3+0, top-up, liên kết nghiên cứu…), thu hút thêm nguồn lực từ xã hội và doanh nghiệp. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo, tăng sức cạnh tranh mà còn hỗ trợ sinh viên tiếp cận chương trình đào tạo, bằng cấp quốc tế và môi trường học tập toàn cầu ngay tại Việt Nam.

download.jpg
Tiến sĩ Hồ Thanh Trí - Viện trưởng Viện quốc tế, Trường đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường

Cần có chính sách ưu đãi rõ ràng về tài chính, thuế, tín dụng và đất đai

Khi có cơ chế, chính sách hợp tác và đầu tư mới, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Văn Minh kỳ vọng điều này sẽ tạo cơ hội thu hút nhiều nguồn lực xã hội và quốc tế, từ vốn đầu tư, công nghệ cho đến tri thức và mạng lưới chuyên gia, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và mở ra con đường để nhà trường cũng như các trường đại học Việt Nam tham gia sâu hơn vào mạng lưới giáo dục toàn cầu.

Đặc biệt, thầy Minh nhấn mạnh: "Bên cạnh chính sách, nguồn vốn bên ngoài, yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh của các trường đại học trước hết phải đến từ năng lực nội sinh của mỗi đơn vị. Đó là chất lượng đội ngũ giảng viên; khả năng quản trị minh bạch, hiện đại; nền tảng số hóa để đáp ứng yêu cầu toàn cầu. Nếu không nâng cao được chuẩn chất lượng và năng lực quản trị, dù có nhiều hợp tác hay đầu tư, trường đại học vẫn khó khẳng định được vị thế".

Cũng liên quan đến việc hợp tác đầu tư phát triển giáo dục, trong Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo có đề cập: xây dựng cơ chế, chính sách đủ mạnh khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh hợp tác công tư; mở rộng hợp tác, liên kết giữa các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, cơ sở nghiên cứu, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước; ưu tiên vốn tín dụng cho các dự án phát triển giáo dục và đào tạo. Xây dựng khung khổ pháp lý để hình thành quỹ tài trợ cho các cơ sở giáo dục huy động vốn cộng đồng.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Văn Minh đánh giá, Nghị quyết 71-NQ/TW là dấu mốc quan trọng, là cơ hội để các tổ chức, doanh nghiệp tham gia giáo dục không chỉ với vai trò hỗ trợ xã hội mà còn như một chiến lược đầu tư lâu dài gắn với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Đặc biệt, trong vấn đề hợp tác công - tư, để khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển giáo dục, trước hết cần có chính sách ưu đãi rõ ràng, ổn định và minh bạch, từ ưu đãi về thuế, đất đai cho đến cơ chế chia sẻ lợi ích.

Các bên tham gia hợp tác phải được đảm bảo tiếng nói và quyền lợi chính đáng trong các mô hình hợp tác, song song với việc giữ vững chuẩn mực học thuật và nhất là tránh lợi dụng thương mại hóa giáo dục.

Đồng thời, phải xây dựng niềm tin, hợp tác công – tư chỉ có thể bền vững khi các bên tham gia đều được đảm bảo lợi ích lâu dài, còn xã hội nhìn thấy được giá trị công ích rõ ràng.

Nếu tiếp cận bài bản, giáo dục đại học sẽ trở thành “nền tảng nhân lực” để doanh nghiệp đầu tư và đồng hành, còn doanh nghiệp sẽ trở thành “động lực xã hội” để giáo dục đổi mới và phát triển.

Đưa ra các đề xuất, kiến nghị để thúc đẩy hợp tác và đầu tư trong giáo dục đại học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Thị Thanh Thủy bày tỏ: "Chúng tôi mong muốn Nhà nước tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý theo hướng thông thoáng, minh bạch hơn để các trường đại học, trong đó có Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, thuận lợi trong tiếp nhận đầu tư và chuyển giao công nghệ từ các đối tác quốc tế.

Đồng thời, rất cần có các chính sách ưu đãi cụ thể về tài chính, thủ tục hành chính và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhằm khuyến khích doanh nghiệp và tổ chức quốc tế hợp tác với các trường.

Đặc biệt, chúng tôi kỳ vọng Nhà nước hỗ trợ thúc đẩy các chương trình hợp tác học thuật, liên kết đào tạo, cũng như tạo điều kiện để các trường tham gia sâu hơn vào mạng lưới giáo dục toàn cầu. Điều này không chỉ giúp Học viện tiếp cận tri thức và công nghệ mới mà còn góp phần nâng cao uy tín, năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế của giáo dục đại học Việt Nam".

Chia sẻ thêm về vấn đề đẩy mạnh hợp tác công - tư trong giáo dục, cô Thủy khẳng định, nhằm khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục và đào tạo, trước hết Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi rõ ràng về tài chính, thuế, tín dụng và đất đai cho các dự án hợp tác.

Cần xây dựng cơ chế pháp lý minh bạch, ổn định để doanh nghiệp yên tâm khi đồng hành cùng nhà trường, nhất là trong các hoạt động đầu tư cơ sở vật chất, chuyển giao công nghệ và phát triển chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn.

Về phía các cơ sở đào tạo như Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam, đơn vị cũng phải chủ động thiết kế các chương trình hợp tác linh hoạt, đôi bên cùng có lợi, bảo đảm doanh nghiệp thấy rõ giá trị và lợi ích lâu dài khi tham gia.

Khi tạo được niềm tin và môi trường thuận lợi, chắc chắn hợp tác công - tư sẽ được đẩy mạnh, góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của giáo dục đại học.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Thị Thanh Thủy - Trưởng phòng Phòng Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam. Ảnh: Thi Thi

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Thị Thanh Thủy - Trưởng phòng Phòng Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam. Ảnh: Thi Thi

Còn với góc nhìn của Tiến sĩ Hồ Thanh Trí, nhằm tận dụng cơ hội từ các chính sách, cơ chế mới, các cơ sở giáo dục đại học phải nâng cao chất lượng đào tạo gắn với chuẩn quốc tế và khả năng hội nhập, thông qua chương trình được kiểm định, đội ngũ giảng viên có năng lực ngoại ngữ và kinh nghiệm quốc tế, cùng môi trường học tập sáng tạo, gắn kết với doanh nghiệp.

Về phía Nhà nước, cần hỗ trợ hoàn thiện khung pháp lý về công nhận văn bằng và kiểm định, tạo cơ chế ưu đãi đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đơn giản hóa thủ tục học bổng, nới lỏng cơ chế visa trong trao đổi quốc tế, để các trường thuận lợi hơn trong hội nhập và nâng cao vị thế.

Bên cạnh đó, thầy Trí nói thêm: "Để khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp đầu tư, cần có khung pháp lý minh bạch và ổn định cho hợp tác công - tư, cùng với chính sách ưu đãi thiết thực về thuế, đất đai, tín dụng. Ngoài ra, doanh nghiệp nên được tham gia xây dựng chương trình gắn với nhu cầu nhân lực, qua đó thấy rõ lợi ích khi hợp tác.

Sự phối hợp chặt chẽ và chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp sẽ là yếu tố quyết định để thu hút đầu tư, thúc đẩy hợp tác công - tư và nâng cao chất lượng giáo dục đại học".

Hồng Linh