140 trường công "đại sắp xếp", đại học tư thục cần sớm có chiến lược để khẳng định thương hiệu

14/10/2025 06:32
Trần Trang

GDVN -Các trường đại học tư thục có lợi thế về cơ chế quản trị tự chủ, liên kết doanh nghiệp mạnh, do đó dễ dàng đổi mới và nắm bắt xu hướng.

Ngày 21/9/2025, Ban chỉ đạo về tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Chính phủ đã ban hành Kế hoạch số 130/KH-BCDDTKNQ18 về sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức trong hệ thống hành chính nhà nước.

Theo kế hoạch này, những cơ sở không đạt chuẩn sẽ bị sáp nhập hoặc giải thể; các viện nghiên cứu được hợp nhất với trường đại học; một số trường công lập chuyển giao cho địa phương quản lý; đồng thời xóa bỏ cấp trung gian, hướng tới mô hình quản trị tinh gọn và hiệu quả hơn.

Một số chuyên gia và lãnh đạo trường đại học tư thục cho rằng, điều này mở ra một cơ hội đặc biệt để khu vực tư nhân khẳng định vai trò mới trong hệ sinh thái giáo dục quốc gia.

Không gian phát triển của khối đại học tư thục rộng mở sau sắp xếp 140 trường công

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Ái Cầm - Hiệu trưởng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành cho biết: "Triển vọng phát triển của khối trường tư thục cần được nhìn trong mối quan hệ với hai trục chính sách lớn: Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Một mặt, Nghị quyết số 71 thúc đẩy tinh gọn, chất lượng và hội nhập; mặt khác, Nghị quyết số 68 đặt tư nhân vào trung tâm của tăng trưởng, sáng tạo và hội nhập kinh tế. Khi hai nghị quyết này tương tác, đại học tư thục trở thành “điểm hội tụ”: vừa là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, vừa là thành phần kinh tế - xã hội trực tiếp tham gia đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển khoa học công nghệ".

image-17.jpg
Tiến sĩ Trần Ái Cầm - Hiệu trưởng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. Ảnh: NTCC.

Theo Tiến sĩ Trần Ái Cầm, cơ hội bứt phá trước hết đến từ khả năng linh hoạt trong quản trị và chiến lược phát triển. Trong khi đại học công lập sáp nhập để hình thành những “đại học lớn” có thể mất nhiều thời gian để ổn định, trường tư lại có ưu thế ra quyết định nhanh, thử nghiệm mô hình quản trị hiện đại, ứng dụng công nghệ số trong đào tạo và kiểm định chất lượng.

Bên cạnh đó, xu hướng dịch chuyển nhân sự từ khối công lập sau sáp nhập tạo điều kiện để trường tư thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia chất lượng cao. Quan trọng hơn, với định vị tự chủ và linh hoạt, trường tư có thể chọn cho mình lối đi khác biệt - tập trung vào ngành nghề mũi nhọn, đào tạo gắn liền nhu cầu thị trường lao động, từ đó xây dựng bản sắc và thương hiệu.

Tuy nhiên, thách thức cũng không nhỏ. Các đại học công lập lớn sau sáp nhập sẽ có thương hiệu mạnh, học phí thấp hơn, dễ chiếm ưu thế truyền thông và tuyển sinh. Trường tư vì vậy đối diện với áp lực cạnh tranh gay gắt, nhất là trong bối cảnh nguồn lực tài chính còn hạn chế, việc đầu tư cho nghiên cứu và cơ sở vật chất đòi hỏi chi phí rất cao.

Đồng thời, khung pháp lý mới sau Nghị quyết số 71 có thể điều chỉnh liên quan đến liên kết đào tạo, công nhận văn bằng, chuẩn kiểm định - nếu không kịp thích ứng, trường tư thục sẽ gặp bất lợi.

Cùng bàn luận về chủ đề này, Phó Hiệu trưởng của một trường đại học tư thục tại Hà Nội chia sẻ: "Sau khi tiến hành sắp xếp, tái cấu trúc các trường đại học công lập, một thực tế có thể thấy là số lượng trường công sẽ giảm, các chuẩn mực quản trị được nâng lên.

Trong bối cảnh đó, khối trường đại học tư có cơ hội vàng để bứt phá. Thứ nhất, khi hệ thống công lập được “gạn lọc” và thu hẹp, không gian phát triển của khối tư thục sẽ rộng mở hơn, nhất là ở những ngành mới, gắn với nhu cầu thị trường lao động mà trường công chưa kịp mở hoặc chưa linh hoạt.

Các trường đại học tư sở hữu lợi thế về cơ chế quản trị tự chủ, khả năng ra quyết định nhanh chóng và mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp, nhờ đó có điều kiện linh hoạt trong đổi mới và dễ dàng đón bắt những xu hướng đào tạo như Fintech, Logistics, AI, Truyền thông số hay Esports".

Ở góc độ chuyên gia, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng cơ hội của hệ thống đại học tư thục rất rõ.

"Nghị quyết số 68 đã xác định phát triển kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế. Giáo dục đại học tư vì thế cũng được mở ra một không gian phát triển mới: có thể huy động vốn xã hội, đầu tư linh hoạt vào những ngành nghề thị trường cần, đặc biệt là các lĩnh vực công nghệ, dịch vụ hiện đại.

Khi hệ thống công lập sắp xếp lại, khoảng trống đào tạo sẽ xuất hiện, trường tư nào nhanh nhạy thì tận dụng được để đa dạng hóa chương trình đào tạo, tạo ra sự khác biệt.

Theo tinh thần Nghị quyết số 71, những vướng mắc về đất đai được kỳ vọng sẽ được tháo gỡ khi điều kiện và thủ tục cấp đất trở nên thuận lợi hơn so với trước. Đây cũng là cơ hội để các cơ sở giáo dục mở rộng quy mô, đầu tư đồng bộ về hạ tầng và cơ sở vật chất.

Tuy nhiên, khi Nhà nước ngày càng siết chặt chuẩn giáo dục đại học, các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu sẽ khó trụ vững, thậm chí có nguy cơ bị loại khỏi hệ thống" - thầy Vinh bày tỏ.

f096f37e-7b77-40b2-95b1-ced3c36a495d.jpg
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ảnh: NVCC.

Các trường đại học tư cần có chiến lược để khẳng định thương hiệu

Theo Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh, Nhà nước nên tập trung đầu tư cho những ngành mũi nhọn đòi hỏi nghiên cứu cơ bản, phòng thí nghiệm quy mô lớn và đội ngũ tinh hoa, trong khi nhiều ngành đào tạo khác hoàn toàn có thể để khu vực tư nhân đảm nhận. Cách làm này vừa giảm áp lực cho ngân sách, vừa khuyến khích nguồn lực xã hội tham gia và tránh sự cạnh tranh không cần thiết về tuyển sinh.

Đây cũng là cơ hội để các trường tư phát triển trong những lĩnh vực mang tính ứng dụng, dịch vụ hay công nghệ mới. Tuy nhiên, thách thức không nhỏ đang chờ đón: sau tái cấu trúc, các trường công sẽ hình thành những trường đại học lớn với tiềm lực vượt trội do đó để tồn tại và lớn mạnh, trường tư buộc phải lựa chọn con đường khác biệt, linh hoạt và gắn chặt với nhu cầu thực tiễn của thị trường.

"Để biến chủ trương thành lợi thế thực sự cho khối đại học tư thục, cần tập trung vào bốn định hướng lớn. Thứ nhất, chuyên nghiệp hóa quản trị, đảm bảo tính minh bạch và hiện đại trong vận hành để thu hút nhân tài.

Thứ hai, tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, vừa mở rộng cơ hội việc làm cho sinh viên, vừa huy động thêm nguồn lực đầu tư từ Nhà nước và xã hội.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đào tạo và uy tín học thuật thông qua kiểm định, nghiên cứu ứng dụng và hợp tác quốc tế.

Cuối cùng, chú trọng cải thiện chất lượng đầu vào và phát triển đội ngũ giảng viên. Đây sẽ là những yếu tố then chốt giúp các trường tư khẳng định vị thế và phát triển bền vững" - Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh cho hay.

image-18.jpg
Sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành trong một buổi học thực hành. Ảnh: Website nhà trường.

Phó Hiệu trưởng một trường đại học tư thục tại Hà Nội bày tỏ, sự phát triển mạnh mẽ của các trường đại học tư không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho người học mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đối với toàn ngành giáo dục.

Với sinh viên, đây là cơ hội để có lựa chọn đa dạng hơn về chương trình đào tạo. Ở góc độ ngành giáo dục và xã hội, sự lớn mạnh của khối tư thục tạo động lực cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy cả hệ thống nâng cao chất lượng, khuyến khích xã hội hóa giáo dục và thu hút thêm nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân, doanh nghiệp.

Vị Phó Hiệu trưởng cũng chia sẻ: "Để tận dụng cơ hội từ “đại sắp xếp” trường công cùng xu thế phát triển của kinh tế tư nhân, các trường đại học tư cần xác định chiến lược phát triển rõ ràng và mang tính đột phá.

Đầu tiên là định vị thương hiệu và thế mạnh riêng, tránh sao chép mô hình công lập mà thay vào đó nhấn mạnh vào sự khác biệt như gắn kết doanh nghiệp, quốc tế hóa hay ứng dụng công nghệ số. Bài học có thể đến từ những đại học tư thục danh tiếng trên thế giới như Đại học Harvard (Mỹ), Đại học Keio (Nhật Bản), hay Đại học Yonsei (Hàn Quốc), nơi mà thương hiệu tư nhân đồng nghĩa với chất lượng hàng đầu.

Song song với đó, các trường cần đầu tư mạnh vào chất lượng đào tạo và nghiên cứu ứng dụng, xây dựng đội ngũ giảng viên giàu trải nghiệm thực tiễn và năng lực học thuật, phát triển chương trình theo chuẩn quốc tế, mở rộng hợp tác để triển khai đào tạo song bằng và trao đổi sinh viên.

Một hướng đi quan trọng khác là đẩy mạnh gắn kết với doanh nghiệp và địa phương nhằm hình thành hệ sinh thái “học tập - khởi nghiệp - việc làm”, nơi các trường có thể trở thành “đại học doanh nghiệp”, đào tạo sát nhu cầu lao động và thậm chí đào tạo theo đơn đặt hàng ở những ngành chiến lược.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong quản trị - đào tạo sẽ giúp trường tư đi nhanh, đi trước, thông qua e-learning, blended learning hay khai thác big data để cá nhân hóa quá trình học tập".

image-19.jpg
Sinh viên ngành Quản lý bệnh viện tại Trường Đại học Nguyễn Tất Thành. Ảnh: Website nhà trường.

Tiến sĩ Trần Ái Cầm cũng cho hay, ở tầm vĩ mô, sự phát triển mạnh mẽ của khối đại học tư thục không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho sinh viên mà còn góp phần làm cho toàn hệ thống giáo dục đại học trở nên năng động, cạnh tranh và hội nhập quốc tế hơn.

Đây cũng là con đường mà nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản hay Hàn Quốc đã đi, khi để khối tư thục đảm nhiệm phần lớn hoạt động đào tạo ứng dụng gắn với nhu cầu doanh nghiệp và thị trường lao động, trong khi các trường công lập tập trung cho nghiên cứu cơ bản và những lĩnh vực chiến lược quốc gia.

Trong bối cảnh Chính phủ coi phát triển kinh tế tư nhân là một động lực then chốt theo tinh thần Nghị quyết số 68, các trường đại học tư càng cần chủ động xác lập chiến lược phát triển rõ ràng.

Trước hết, phải định vị thương hiệu dựa trên sự khác biệt, khẳng định chất lượng, dịch vụ và sự gắn kết với thị trường thay vì chạy theo quy mô. Cùng với đó là tập trung đầu tư có chọn lọc vào những ngành nghề chiến lược, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, mở rộng hợp tác quốc tế và gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp.

Về nhân sự, các trường cần xây dựng cơ chế sáng tạo, coi giảng viên, nhà nghiên cứu và doanh nhân là trung tâm, với chính sách minh bạch, linh hoạt nhằm khuyến khích đổi mới. Đồng thời, việc phát triển văn hóa sáng tạo trong toàn trường, mở rộng các loại hình đào tạo từ chính quy, ngắn hạn đến đào tạo lại và đào tạo liên tục sẽ giúp đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân lực trong bối cảnh kinh tế chuyển dịch nhanh chóng.

Song song với đó, sự công khai về chất lượng và hiệu quả đào tạo, gắn liền với trách nhiệm giải trình với xã hội và người học, chính là nền tảng để xây dựng niềm tin bền vững.

Trần Trang