Sự cần thiết của xếp hạng thành tựu nghiên cứu xuất sắc
Trong thời gian gần đây, tình hình thứ hạng của các đại học trên các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới có nhiều diễn biến rất đáng quan tâm. Theo [1] và [2], Nhóm 06 bảng xếp hạng đại học thế giới phổ biến và nhiều uy tín là SATUQU gồm SCImago của Tây Ban Nha, ARWU của Trung Quốc, THE và QS của Vương Quốc Anh, URAP của Thổ Nhĩ Kỳ và US News của Hoa Kỳ. Trong đó, các bảng xếp hạng SCImago, ARWU và US News ưu tiên đánh giá sự xuất sắc của các kết quả nghiên cứu, bên cạnh các tiêu chí khác.
Có thể thấy các tiêu chí của ARW [3] hướng đến sự xuất sắc thực sự và có thể làm cho các đại học muốn “chạy hạng” hay chạy các thành tích ảo thì cũng có thể khó thực hiện, hoặc nếu được thì cũng chỉ có thể là những thành tích không bền vững. ARWU dựa trên 4 tiêu chí gồm chất lượng giáo dục thể hiện qua các cựu sinh viên đạt giải Nobel hoặc giải Fields (10%), chất lượng giảng viên được đo bằng số giảng viên đạt giải Nobel hoặc giải Fields (20%) và được vinh danh trích dẫn khoa học cao theo WoS (20%), thành tựu nghiên cứu được tính bằng số lượng bài báo khoa học được công bố trên hai tạp chí Nature hoặc Science (20%) và số bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí chuẩn SCIE hay SSCI của WoS (20%), và cuối cùng là hiệu suất của các tiêu chí đã nêu trên tổng số giảng viên cơ hữu (10%).
Hàng năm, ARWU chỉ chọn lọc 1000 đại học hàng đầu thế giới để xếp hạng, chiếm khoảng 2,7% tổng số các đại học trên toàn thế giới. Năm 2019, Việt Nam có một cơ sở giáo dục đại học được xếp vào tốp 1000 của ARWU và năm 2020 thì được tăng lên tốp 800. Năm 2021, Việt Nam có 2 cơ sở giáo dục đại học được vào tốp 700 của bảng xếp hạng này, và một năm sau đó thì một cơ sở trong số đó đã bị rớt xuống tốp 1000 [4]. Từ đó đến nay, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam vắng bóng trên ARWU, mặc dù Việt Nam vẫn có một số đại diện trên các bảng xếp hạng khác thuộc Nhóm SATUQU.
Để có thể được xếp hạng và duy trì thứ hạng trên ARWU, các cơ giáo dục đại học cần phát triển sự xuất sắc đối với hai nhiệm vụ chính gồm nghiên cứu và đào tạo [5]. Và những tiêu chí đánh giá của ARWU thực sự có thể đo lường được sự xuất sắc đó. Hơn nữa, khả năng lọc thành tích học thuật ảo của ARWU là rất cao và có thể nói là cao nhất trong các bảng xếp hạng đại học.
Trong các tiêu chí xuất sắc của ARWU liên quan bài báo khoa học, tiêu chí số lượng bài báo khoa học trên hai tạp chí khoa học Nature và Science chẳng những được sự quan tâm đặc biệt của các cơ sở giáo dục đại học mà còn rất được các quốc gia trên thế giới chú trọng đầu tư. Tạp chí Nature thuộc Nhà xuất bản Springer Nature (Đức-Vương Quốc Anh), có chỉ số H là 1.442, một chỉ số quan trọng để đo lường uy tín của tạp chí, được xếp số 1 trong tất cả các tạp chí khoa học uy tín theo SCImago. Tạp chí Science được xuất bản bởi Hiệp hội phát triển khoa học Hoa Kỳ, có chỉ số H là 1.382, được xếp số 2 trong tất cả các tạp chí khoa học uy tín theo SCImago. Tác giả chính của những bài báo khoa học được công bố trên Nature hoặc Science có nhiều cơ hội để trở thành ứng viên của các giải thưởng khoa học lớn trên thế giới, như giải Nobel. Đặc biệt, hai tạp chí Nature và Science là các tạp chí đa ngành, có thể công bố kết quả nghiên cứu từ tất cả các lĩnh vực khoa học.
Ở Việt Nam, trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, việc phát triển nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Sau Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với nhiều mục tiêu mang tầm khu vực ASEAN và Thế giới, Bộ Chính trị đã ban hành tiếp Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Trong đó, có việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, mở rộng không gian phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước [6]. Với tinh thần của hai nghị quyết này của Bộ Chính trị, việc đối sánh hay xếp hạng về thành tựu nghiên cứu trong khu vực ASEAN thực sự rất cần thiết; trong đó, thành tựu nghiên cứu xuất sắc cần được xem trọng.
Ngoài ra, ngày 19/09/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 249/2025/NĐ-CP Quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tại Điểm đ Khoản 3 Điều 3 của nghị định này, một trong những yêu cầu đối với chuyên gia là phải có tối thiểu 10 bài báo quốc tế đăng trên các tạp chí danh tiếng. Điều này cho thấy việc đối sánh hay xem xét thành tựu nghiên cứu trên các tạp chí lừng danh Nature hay Science, có thể xem là những tạp chí danh tiếng nhất trong những tạp chí danh tiếng, thực sự manh tính thời sự và phù hợp với định hướng nâng tầm nghiên cứu khoa học của đất nước.
Do đó, việc đối sánh thành tựu công bố của Việt Nam với vác quốc gia trong khu vực ASEAN trên tạp chí Nature và Science là rất cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng cho việc hoạch định chiến lược phát triển nghiên cứu khoa học theo định hướng xuất sắc, đặc biệt là trong giai đoạn cả nước đang quyết liệt trong việc triển khai các nghị quyết mà Bộ Chính trị vừa ban hành về đột phá phát triển nghiên cứu khoa học và hội nhập.
Bảng xếp hạng SARAP Ranking
Nhóm nghiên cứu Đo lường khoa học và Chính sách quản trị nghiên cứu (SARAP) thuộc Trường Đại học Văn Lang đã và đang thực hiện nghiên cứu và xếp hạng thành tựu nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đại học và các quốc gia trong khu vực [7] - [12].
Ngày 24/01/2025, SARAP công bố xếp hạng thành tựu bài báo nghiên cứu của các nước ASEAN năm 2024 (SARAP Ranking 2024 ASEAN). Trong đó, Việt Nam được xếp thứ 5 trong 10 nước ASEAN [10]. Trên tinh thần hướng tới sự xuất sắc và bền vững, bài báo này trình bày xếp hạng của các nước ASEAN về thành tựu bài báo nghiên cứu xuất sắc được công bố trên hai tạp chí lừng danh Nature và Science trong nửa đầu năm 2025, ký hiệu: SARAP 2025-0.5-ASEAN-NS.

Phương pháp và dữ liệu xếp hạng SARAP Ranking 2025-0.5-ASEAN-NS
SARAP 2025-0.5-ASEAN-NS dựa trên thành tựu báo cáo nghiên cứu (loại article) được công bố trên hai tạp chí Nature và Science của các quốc gia ASEAN trong nửa đầu năm 2025, tính từ ngày 01/01/2025 – 30/06/2025.
Dữ liệu được truy xuất từ Cơ sở dữ liệu Web of Science (WoS, Mỹ) vào ngày 23/09/2025, bằng thuật toán nâng cao với Query Builder kết hợp cùng lúc các miền dữ liệu SO, CU, DT và DOP đồng bộ. Dữ liệu thu được cho thấy cả thế giới đã công bố được 1.049.516 bài báo nghiên cứu loại WoS thuộc hai nhóm chính SCIE và SSCI, không kể nhóm dự bị ESCI. Trong đó, tổng số bài báo nghiên cứu trên hai tạp chí Nature và Science là 1.102, chiếm khoản 0,1% tổng số bài SCIE và SSCI. Và số bài báo nghiên cứu trên hai tạp chí lừng danh này của các nước ASEAN là 42, chiếm 3,81% toàn thế giới.

Ảnh chụp trực tiếp từ WoS
Cần lưu ý là mỗi bài báo khoa học như đã nêu không nhất thiết được tính cho duy nhất một quốc gia trong ASEAN, vì có thể nhiều quốc gia cùng tham gia một dự án nghiên cứu và cùng đứng tên trong một bài báo khoa học.
Kết quả xếp hạng SARAP Ranking 2025-0.5-ASEAN
Kết quả cho thấy Singapore xếp số 1 ASEAN với 76,1% thành tựu chung của cả khối ASEAN. Điều này hết sức ngạc nhiên vì dân số Singapore là rất khiêm tốn trong khối. Thái Lan xếp thứ 2 với tỷ trọng đóng góp là 19,04%, thứ 3 là Malaysia với tỷ trọng 16,66%. Việt Nam đồng hạng với Philippines và cùng đứng thứ 6 với cùng tỷ trọng đóng góp là 4,76% cho ASEAN. Điều thú vị là tất cả các quốc gia ASEAN đều có bài báo nghiên cứu trên Nature hoặc Science trong cùng kỳ. Dưới đây là kết quả chi tiết của SARAP 2025-0.5-ASEAN-NS:
Hạng | Quốc gia | Số bài Nature và Science | Tỷ trọng ASEAN |
1 | Singapore | 32 | 76,1% |
2 | Thái Lan | 8 | 19,04% |
3 | Malaysia | 7 | 16,66% |
4 | Indonesia | 4 | 9,52% |
5 | Philippines | 2 | 4,76% |
5 | Việt Nam | 2 | 4,76% |
6 | Brunei | 1 | 2,38% |
7 | Campuchia | 1 | 2,38% |
8 | Laos | 1 | 2,38% |
9 | Myanmar | 1 | 2,38% |
SARAP 2025-0.5-ASEAN-NS.
Có thể mô phỏng phân bố bài báo Nature và Science trong ASEAN trong nửa đầu năm 2025 như dưới đây để tăng cường trực quan trong đối sánh:

Hai bài báo nghiên cứu của Việt Nam trong dữ liệu trên đều đến từ Trường Đại học Y Hà Nội và đều trên tạp chí Nature. Bài đầu tiên “Genome diversity and signatures of natural selection in mainland Southeast Asia” thuộc Bộ môn miễn dịch học, với tác giả chủ trì/corresponding và tác giả đầu đến từ Trung Quốc. Bài báo thứ hai “Global evolution of inflammatory bowel disease across epidemiologic stages” thuộc Khoa nội tổng hợp, với tác giả đầu đến từ Canada và tác giả chủ trì/corresponding đến từ Canada, Thụy Điển, Trung Quốc.
Giải pháp cho Việt Nam
Xu hướng chung của các nước tiên tiến trong lĩnh vực SARAP là trọng chất và hiệu quả hơn trọng lượng. Việc có nhiều bài báo khoa học hoặc có nhiều trích dẫn khoa học cũng có thể là điều thú vị nhất định, nhưng chỉ những kết quả nghiên cứu có thể được chuyển giao để mang lại giá trị thực dưới dạng các sản phẩm công nghệ mới, sản phẩm tri thức mới và sản phẩm danh tiếng mới thì mới được đánh giá cao [11]. Và những kết quả nghiên cứu xuất sắc được công bố trên những tạp chí lừng danh như Nature hay Science có triển vọng chuyển giao và mang lại giá trị cao hơn.
Kết quả đối sách trong khu vực SARAP 2025-0.5-ASEAN-NS có thể cho thấy các cơ sở nghiên cứu ở Việt Nam cần có chiến lược quyết liệt và hiệu quả hơn nữa để có thể theo kịp và/hoặc vượt qua một số quốc gia để có thể vào tốp 3 khu vực ASEAN cả về số lượng công bố khoa học và thành tựu nghiên cứu xuất sắc. Việt Nam đang bươc vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và đặc biệt với các nghị quyết rất sâu sắc, quyết liệt và tiệm cận thông lệ quốc tế trong lĩnh vực SARAP của Bộ Chính trị nên việc hiện thực hóa các mục tiêu đã đặt ra là có cơ sở.
Trong nửa đầu năm 2025, Việt Nam chỉ có 2 bài báo được công bố trên hai tạp chí khoa học lừng danh Nature và Science. Đây là một kết quả còn rất khiêm tốn nếu so sánh với Singapore – quốc gia đã có tới 32 bài. Hơn nữa, cả hai bài báo của Việt Nam đều có tác giả chính (first author, corresponding author) đến từ những quốc gia có nền khoa học – công nghệ phát triển mạnh.
Để Việt Nam có thể sớm sở hữu, hoặc thậm chí chủ trì nhiều công trình nghiên cứu xuất sắc được công bố trên Nature hay Science hay các thành tựu nghiên cứu xuất sắc tương đương, đồng thời tiến lên vị trí thứ 3 trong ASEAN, cần xem xét một số giải pháp sau:
Đầu tư nghiên cứu có trọng tâm
Đã đến lúc cần chú trọng không chỉ số lượng mà cả chất lượng và đẳng cấp trong nghiên cứu khoa học. Bên cạnh việc ưu tiên cho các hướng nghiên cứu thiết yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn như chuyển giao tri thức, giải quyết các vấn đề cấp bách, rất cần xác định những hướng nghiên cứu trọng điểm có khả năng tạo ra các thành tựu lớn. Quan trọng hơn, phải có hệ thống đo lường sự xuất sắc; trong đó, công bố trên các tạp chí hàng đầu như Nature hay Science chỉ nên được coi là một trong nhiều thước đo.
Xây dựng các trung tâm nghiên cứu mũi nhọn
Ngoài các nhóm nghiên cứu mạnh hiện có, cần thành lập thêm các trung tâm nghiên cứu mũi nhọn, trung tâm nghiên cứu xuất sắc, được dẫn dắt bởi các chuyên gia hàng đầu, có cơ chế tài chính đặc biệt và cam kết cụ thể về thành tựu xuất sắc.
Thu hút nguồn nhân lực đẳng cấp cao
Bên cạnh các chính sách thu hút chuyên gia như hiện nay, cần làm rõ tiêu chí đánh giá đẳng cấp và sự xuất sắc của các chuyên gia mục tiêu. Từ đó, xây dựng cơ chế đãi ngộ hợp lý để họ có thể phát huy năng lực và tạo ra các thành tựu nghiên cứu xuất sắc như kỳ vọng.
Hợp tác nghiên cứu với đối tác mạnh
Cần triển khai các chương trình hợp tác nghiên cứu chất lượng cao với những viện nghiên cứu, đại học hàng đầu thế giới thông qua trao đổi chuyên gia, đồng tài trợ dự án, phát triển phòng thí nghiệm chung. Đồng thời, đẩy mạnh các dự án song phương, đa phương có tiềm năng tạo ra các công trình nghiên cứu xuất sắc.
Chính sách quản trị nghiên cứu theo hướng tinh hoa
Chuyển từ cách đánh giá dựa trên số lượng sang chất lượng, với các tiêu chí cụ thể về giá trị mang lại từ hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tri thức. Cần xây dựng bộ tiêu chí riêng cho từng loại sản phẩm từ nghiên cứu mới: công nghệ, tri thức, hay danh tiếng. Bên cạnh đó, phải bảo đảm định hướng phát triển bền vững, lấy giá trị tạo ra làm thước đo, đồng thời duy trì liêm chính học thuật.
Đầu tư hạ tầng khoa học và dữ liệu
Để tạo ra những sản phẩm nghiên cứu xuất sắc, không thể thiếu hạ tầng thí nghiệm hiện đại, hệ thống tính toán hiệu năng cao và cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu. Cần có cơ chế đầu tư đặc thù để tránh những hạn chế mang tính thủ tục hành chính vốn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Lê Văn Út & Thân Đức Dũng (2025); Kết quả mô phỏng lộ trình được xếp hạng 700 và 1000 thế giới theo Times Higher Education cho Trường Đại học Văn Lang; Báo cáo nghiên cứu chiến lược về xếp hạng đại học, Số 5/2025/SARAP-BC ngày 14/5/2025, Nhóm Nghiên cứu đo lường khoa học và Chính sách quản trị nghiên cứu (SARAP), Trường Đại học Văn Lang (20 trang).
[2] Lê Văn Út & Thân Đức Dũng (2025); So sánh hai bảng xếp hạng đại học thế giới QS và THE của Vương Quốc Anh và những đề xuất chiến lược về xếp hạng đại học cho Trường Đại học Văn Lang; Báo cáo nghiên cứu chiến lược về xếp hạng đại học, Số 02/2025/SARAP-BC, Nhóm Nghiên cứu đo lường khoa học và Chính sách quản trị nghiên cứu (SARAP), Trường Đại học Văn Lang (17 trang).
[3] ARWU (2025); ShanghaiRanking's Academic Ranking of World Universities Methodology 2025; https://www.shanghairanking.com/methodology/arwu/2025.
[4] PV. Doãn Nhàn (2025); Đại học Việt Nam đang đứng ở đâu trên bản đồ bảng xếp hạng thế giới?; Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, 07/01/2025.
[5] Nghị định số 109/2022/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học.
[6] PV. Hải Liên (2025); Nghị quyết số 59-NQ/TW: Bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế; Báo Điện tử Chính phủ, 16/09/2025.
[7] Lê Văn Út (2024); Xếp hạng thành tựu bài báo nghiên cứu của các đại học Việt Nam trong nửa đầu năm 2024; Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học & Công nghệ, 17/07/2024.
[8] Lê Văn Út (2024); Xếp hạng hiệu suất thành tựu bài báo nghiên cứu của các đại học Việt Nam trong nửa đầu năm 2024; Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học & Công nghệ, 13/12/2024.
[9] Lê Văn Út (2025); Xếp hạng thành tựu bài báo nghiên cứu của các cơ sở GDĐH Việt Nam năm 2024; Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, 20/03/2025.
[10] Lê Văn Út (2025); Xếp hạng hiệu suất công bố bài báo nghiên cứu của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam năm 2024, Đại biểu Nhân dân, Văn phòng Quốc hội, 20/07/2025.
[11] Lê Văn Út (2025); Xếp hạng thành tựu bài báo nghiên cứu của các CSGD đại học Việt Nam nửa đầu năm 2025; Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, 30/07/2025.
[12] Lê Văn Út (2025); Xếp hạng thành tựu bài báo nghiên cứu của các nước Đông Nam Á năm 2024; Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, 24/01/2025.
[13] Lê Văn Út (2024); Ba loại sản phẩm khoa học công nghệ tạo ra tiền, Đại biểu Nhân dân, Văn phòng Quốc hội, 01/02/2024.