Lựa chọn phương pháp giáo dục sớm cho trẻ: Làm sao để cha mẹ không bị “rối”?

08/10/2025 14:34
Cẩm Anh

GDVN - Giáo dục sớm không phải là dạy chữ, dạy toán, mà là tạo môi trường để trẻ được sống, được trải nghiệm và khám phá thế giới.

Những năm đầu đời là giai đoạn vàng trong quá trình phát triển của một đứa trẻ - khi não bộ, cảm xúc và khả năng học hỏi đang phát triển mạnh mẽ nhất. Chính vì vậy, “giáo dục sớm” ngày càng nhận được sự quan tâm sâu sắc từ các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục như một bước khởi đầu quan trọng, ảnh hưởng lâu dài đến hành trình trưởng thành của trẻ.

Vậy giáo dục sớm thực chất là gì? Có phải là dạy chữ, dạy số từ khi trẻ còn chưa biết đi? Và làm sao để áp dụng hiệu quả trong gia đình Việt?

Hiểu đúng về khái niệm “giáo dục sớm”

Theo Tiến sĩ Vũ Thị Thúy - Nhà sáng lập kiêm quản lý Hệ thống Giáo dục Mẹ Yêu Con và Công ty Cổ phần đầu tư & phát triển Giáo dục Vườn Ươm, người có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu và thực hành giáo dục trẻ nhỏ, cụm từ "giáo dục sớm" không nên được hiểu theo nghĩa “cầm đèn chạy trước ô tô” hay ép trẻ học trước độ tuổi. Chữ “sớm” ở đây không chỉ là về thời gian, mà là chỉ giai đoạn khởi đầu của cuộc đời - từ khi trẻ còn là phôi thai trong bụng mẹ đến khi bước vào tuổi tiểu học.

vu-thi-thuy-7235.jpg
Tiến sĩ Vũ Thị Thúy.

“Nếu ví đời người như một cây xanh, thì sự sống bắt đầu từ hạt mầm. Với con người, hạt mầm ấy là khi còn nằm trong bụng mẹ. Ngay từ giai đoạn đó, cha mẹ đã có thể bắt đầu quá trình giáo dục”, bà Thúy giải thích.

Theo đó, giáo dục sớm là toàn bộ giai đoạn từ khi con người bắt đầu sự sống cho đến khi bước vào tiểu học. Đây là quãng thời gian để nuôi dưỡng bản năng học hỏi tự nhiên của trẻ, đồng thời có sự định hướng nhẹ nhàng, tinh tế từ cha mẹ và người lớn.

Giáo dục sớm không phải là dạy chữ, dạy toán, mà là tạo môi trường để trẻ được sống, được trải nghiệm, được khám phá thế giới bằng tất cả giác quan của mình. Trong môi trường đó, trẻ có thể học qua quan sát, bắt chước, qua trò chuyện, hay qua chính những va chạm nhỏ trong đời sống hằng ngày. Cha mẹ đóng vai trò “người dẫn đường”, là người đặt nền móng cho nhân cách và năng lực, chứ không phải người áp đặt tri thức.

“Điều quan trọng là phải gạt bỏ quan niệm ‘sớm’ đồng nghĩa với ‘ép’. Giáo dục sớm là đảm bảo cho trẻ những điều kiện tốt nhất để phát huy bản năng học hỏi, đồng thời có định hướng phù hợp để con trẻ phát triển đúng hướng”, bà Thúy nhấn mạnh.

Lựa chọn phương pháp giáo dục sớm - làm thế nào để không bị “rối”?

Trên thực tế, khi nhắc đến giáo dục sớm, nhiều cha mẹ lập tức nghĩ tới hàng loạt phương pháp nổi tiếng như Montessori, Glenn Doman, Reggio Emilia hay Shichida... Sự phong phú ấy khiến nhiều người không biết bắt đầu từ đâu, hoặc vô tình biến giáo dục sớm thành cuộc “chạy đua phương pháp”.

Tiến sĩ Vũ Thị Thúy ví von: “Lựa chọn phương pháp giáo dục sớm cũng giống như chọn một chiếc ô tô giữa hàng trăm hãng khác nhau. Nếu không hiểu bản chất, chúng ta dễ chạy theo hình thức mà quên mất mục tiêu chính là phát triển con người. Điều quan trọng không nằm ở tên phương pháp, mà ở việc cha mẹ hiểu đúng bản chất của giáo dục sớm”.

Theo bà, trước khi tìm hiểu các phương pháp, cha mẹ cần nắm vững hai nguyên tắc cốt lõi.

Thứ nhất, trẻ học theo bản năng và sự tò mò tự nhiên. Theo đó, khi một đứa trẻ tập đi, tập nói, hay khám phá đồ vật quanh mình - đó chính là quá trình học tập tự nhiên. Người lớn chỉ cần tạo không gian an toàn và khích lệ tinh thần khám phá ấy.

Nếu trẻ ngã, người mẹ nói “Mẹ biết con đau, nhưng con tập đi rất giỏi”, trẻ sẽ học được cách nhận diện cảm xúc và được khuyến khích nỗ lực tiếp. Ngược lại, nếu người lớn nói “Cái bàn làm con đau, để mẹ dẹp đi”, đứa trẻ sẽ hình thành tư duy đổ lỗi cho ngoại cảnh.

Những phản ứng rất nhỏ ấy chính là bài học đầu tiên về nhân cách, và cũng chính là bản chất của giáo dục sớm.

“Giáo dục sớm là nghệ thuật ứng xử của người lớn trong từng tình huống đời thường. Cha mẹ định hướng điều gì - đó chính là nội dung mà trẻ sẽ tiếp thu và hình thành nhân cách từ đó”, bà Thúy nhấn mạnh.

Thứ hai, học có định hướng - tức là có sự chủ đích của người lớn. Trong cùng một môi trường, nếu cha mẹ có tư duy giáo dục sớm, cách hành xử và tương tác với con sẽ hoàn toàn khác với người chỉ dạy theo kinh nghiệm lẻ tẻ.

Giáo dục sớm không nằm ở việc con học phương pháp nào, mà ở chỗ cha mẹ hiểu rằng mọi khoảnh khắc trong đời sống đều có thể là một bài học. Mỗi câu nói, mỗi phản ứng, mỗi cách ta xử lý tình huống là đều đang dạy con điều gì đó.

win08368.jpg

“Ở bối cảnh trường lớp, khi các cơ sở quảng bá “theo phương pháp này” hay “phương pháp kia”, việc lựa chọn trở nên phức tạp hơn. Nếu cha mẹ vững hiểu biết về bản chất giáo dục sớm thì họ sẽ ít bị rối bởi tên gọi các phương pháp, bởi vì bản chất của mọi phương pháp thực chất là quan điểm về cách tổ chức môi trường để trẻ phát triển. Nếu cha mẹ muốn áp dụng một phương pháp tại gia đình, điều đó chỉ có nghĩa là họ định hướng: “Tôi sẽ tạo môi trường như thế nào để con lớn lên.

Khi bất kỳ bậc cha mẹ nào quan tâm tới một phương pháp cụ thể, điều đó sẽ ảnh hưởng tới cách họ sắp xếp môi trường gia đình và những nguyên tắc ứng xử với con. Cha mẹ có chủ đích hình thành nhân cách nào ở con thì sẽ chọn và vận dụng những nguyên tắc phù hợp. Như vậy, giữa việc áp dụng giáo dục sớm có chủ đích và không áp dụng sẽ có sự khác biệt rõ rệt trong quá trình hình thành tính cách và kỹ năng của trẻ”, chuyên gia này nhận định.

Nhiều người hiểu lầm giáo dục sớm là sự đầu tư tốn kém

Một trong những ngộ nhận phổ biến là cho rằng giáo dục sớm chỉ dành cho những gia đình có điều kiện tài chính.

Thực tế, theo Tiến sĩ Vũ Thị Thúy, giáo dục sớm không phụ thuộc vào việc mua giáo cụ hay theo học các lớp đắt tiền, mà cốt lõi nằm ở tư duy và thái độ của cha mẹ.

“Nhiều phụ huynh nghĩ rằng để áp dụng phương pháp Montessori phải có đồ gỗ chuẩn chỉnh, hay học Glenn Doman phải có bộ thẻ hàng triệu đồng. Nhưng thật ra, chẳng cần mua gì cả. Chính môi trường sống thường ngày – bữa cơm, góc bếp, khu vườn – đã là lớp học hoàn hảo nhất cho con”, bà chia sẻ.

Theo đó, giáo dục sớm không nằm trong những lớp học có bảng tên phương pháp nước ngoài, mà bắt đầu từ chính căn nhà Việt Nam, nơi cha mẹ biết lắng nghe, trò chuyện và hướng dẫn con bằng yêu thương. Mỗi câu nói dịu dàng, mỗi lời ru, mỗi việc cha mẹ làm gương - đều là một hoạt động giáo dục sớm.

Cha mẹ cũng phải “đi học” để hiểu và dạy con

Khi được hỏi “cha mẹ nên học gì để đồng hành cùng con”, Tiến sĩ Vũ Thị Thúy cho rằng: làm cha mẹ ngày nay không thể chỉ dựa vào bản năng hay kinh nghiệm truyền thống. Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng, nơi trẻ em lớn lên giữa công nghệ, mạng xã hội và những thay đổi chóng mặt. Nếu cha mẹ không học, họ sẽ không hiểu con.

Theo bà Thúy, ở các nước phát triển, việc đào tạo cha mẹ là một phần quan trọng trong hệ thống giáo dục: Khi chuẩn bị kết hôn, có lớp tiền hôn nhân giúp các cặp đôi hiểu vai trò làm cha mẹ; Khi mang thai, họ lại học về cách chăm sóc và giao tiếp với con từ trong bụng mẹ; Khi con chào đời, các khóa học tiếp tục giúp họ tạo môi trường gia đình tích cực, hỗ trợ phát triển toàn diện cho trẻ.

“Đó chính là nền tảng của giáo dục sớm - bắt đầu từ cha mẹ. Còn ở Việt Nam, chúng ta mới chỉ tìm đến lớp học khi đã có vấn đề: khi con hư, con nghiện game hay không nghe lời. Điều đó cho thấy, chúng ta đang ‘chữa cháy’ thay vì phòng ngừa.

Hệ thống giáo dục Mẹ Yêu Con và Học viện Vườn Ươm cũng nhìn thấy rõ điều này và mong muốn chia sẻ, đồng hành cùng các cha mẹ trẻ. Bởi thực tế, nhiều bố mẹ đã tiếp cận với sách báo, với các nguồn thông tin khoa học về sự phát triển của trẻ, hiểu rằng giai đoạn từ 0-6 tuổi là “giai đoạn vàng”. Họ rất mong muốn tự giáo dục sớm cho con ở nhà, muốn hiểu sâu hơn hoặc tìm một phương pháp phù hợp. Nhưng khi đi tìm kiếm, họ lại thiếu những khóa học dành riêng cho cha mẹ. Thực sự, đây đang là một khoảng trống”, bà chia sẻ thêm.

Khoảng trống trong việc xây dựng “phương pháp nuôi con kiểu Việt Nam”

Theo Tiến sĩ Thúy, một thực tế đáng chú ý là hiện nay, phần lớn các khóa học hay tài liệu về giáo dục sớm ở Việt Nam đều dựa trên phương pháp nước ngoài.

win07825.jpg

“Khi tìm kiếm từ khóa “nuôi con kiểu truyền thống”, người ta lại dễ bắt gặp những quan điểm phê phán, cho rằng cách nuôi dạy của ông bà xưa là lạc hậu. Nhưng nếu nhìn sâu, trong truyền thống nuôi con của mẹ Việt có rất nhiều giá trị phổ quát: dạy con biết yêu thương, hiếu thảo, gắn bó với gia đình, với thiên nhiên. Chúng ta chưa hệ thống hóa được những giá trị ấy thành một ‘phương pháp nuôi con kiểu Việt’, nhưng tôi tin rằng ngày đó sẽ đến”, Tiến sĩ Vũ Thị Thúy bày tỏ.

Theo bà, “nuôi con kiểu Việt” không chỉ là vai trò của mẹ, mà còn là sự gắn kết của cả gia đình: cha, mẹ, ông bà - những mắt xích không thể tách rời trong văn hóa Á Đông.

“Chúng ta không chỉ nuôi mà còn dạy. Nuôi là chăm thể chất, còn dạy là truyền văn hóa, tinh thần. Nếu một ngày nào đó trẻ em Việt không còn nói tiếng Việt, không biết ca dao, không ăn cơm nhà - thì chúng ta đã đánh mất chính bản sắc của mình”, bà nói.

Tiến sĩ Vũ Thị Thúy khẳng định: “Giá trị cốt lõi của giáo dục sớm chính là hình thành những phẩm chất đầu tiên về nhân cách con người và bản sắc dân tộc. Đó là nền móng mà mỗi đứa trẻ mang theo trong suốt hành trình trưởng thành”.

Cụ thể, giáo dục sớm giúp trẻ phát triển bốn nhóm giá trị cốt lõi:

Một là, tình yêu thương - tình cảm dành cho con người và thế giới xung quanh.

Hai là, tính tự lập và sự tôn trọng - biết tự chủ, tự tôn, đồng thời tôn trọng người khác.

Ba là, bản năng học tập suốt đời - nuôi dưỡng sự tò mò, óc sáng tạo và khát vọng khám phá.

Bốn là, năng lực hành động - khả năng biến suy nghĩ thành hành động, kiến thức thành thực tiễn.

“Giai đoạn từ 0-6 tuổi chính là thời kỳ vàng để khơi dậy, nuôi dưỡng và bảo vệ những năng lực bẩm sinh ấy. Chúng sẽ trở thành hành trang quý giá đồng hành cùng trẻ trong suốt cuộc đời”, bà Thúy nhấn mạnh.

Cẩm Anh