3 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục trong nước tiên phong thiết lập hợp tác quốc tế

09/10/2025 06:27
Minh Chi

GDVN -Có 3/8 trung tâm KĐCLGD trong nước tiên phong mở rộng hợp tác, được công nhận lẫn nhau với nhiều tổ chức kiểm định uy tín khu vực và quốc tế.

Sau khoảng ba năm triển khai Quyết định số 78/QĐ-TTg ngày 14/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình “Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm”, hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét cả về nhận thức và hành động.

Trong đó, hoạt động của hệ thống trung tâm kiểm định chất lượng trong nước ghi nhận nhiều nỗ lực cải tiến, giữ vai trò trung tâm trong hệ thống bảo đảm chất lượng giáo dục đại học Việt Nam trong việc triển khai công tác kiểm định.

Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm định đang có bước tiến mạnh mẽ

Thời gian qua, hệ thống trung tâm kiểm định chất lượng đã được thiết lập và vận hành với 7 trung tâm đang hoạt động, bao gồm các đơn vị thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Vinh, Đại học Đà Nẵng, Thăng Long, Sài Gòn và Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Tháng 9/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa cấp phép hoạt động cho Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Đông A, nâng số lượng tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước lên 08 trung tâm.

cac-to-chuc-kiem-dinh-trong-nuoc-va-quoc-te-duoc-phep-hoat-dong-tai-viet-nam.png

Theo báo cáo của Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo), đến tháng 9/2025, 100% tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước đến hạn đã được Bộ đánh giá định kỳ theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT.

Đáng chú ý, ít nhất 60% tổ chức kiểm định trong nước đã tham gia mạng lưới bảo đảm chất lượng (QA) quốc tế hoặc thiết lập hợp tác với các đối tác nước ngoài, vượt mục tiêu đặt ra trong Quyết định 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định 78 đặt mục tiêu đến năm 2025, 50% tổ chức kiểm định có hợp tác/thỏa thuận công nhận lẫn nhau quốc tế).

Cụ thể, có 05/05 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá định kỳ theo Thông tư 13.

Trong đó, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã hoàn tất quy trình và được Bộ công bố kết quả đạt mức 2 - mức đánh giá cao nhất theo Thông tư 13; Ba tổ chức còn lại đang trong giai đoạn hoàn tất hồ sơ và thủ tục theo quy định của Bộ.

Kết quả sơ bộ từ các đoàn đánh giá cho thấy, nhiều tổ chức kiểm định đã xây dựng chiến lược phát triển chất lượng rõ ràng, từng bước tiếp cận các chuẩn khu vực và quốc tế như ASEAN-QA, APQN, và đạt mức từ trung bình trở lên ở hầu hết các tiêu chí.

Đặc biệt, các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kiểm định đang có bước tiến mạnh mẽ.

Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã ký kết các thỏa thuận hợp tác và công nhận lẫn nhau với nhiều tổ chức kiểm định uy tín khu vực và quốc tế như INQAAHE, JUA, APQN, ASEAN-QA, QAA, FIBAA, THE-ICE… Các trung tâm này đều có kiểm định viên cơ hữu tham gia các đoàn đánh giá ngoài quốc tế, góp phần lan tỏa giá trị hội nhập và nâng cao năng lực chuyên môn.

Đáng chú ý, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội là đơn vị đầu tiên của Việt Nam tham gia đánh giá thí điểm trong khuôn khổ Dự án SHARE, do đoàn chuyên gia quốc tế thực hiện theo tiêu chí của tổ chức bảo đảm chất lượng khu vực, bước đầu đáp ứng yêu cầu tiếp cận chuẩn quốc tế trong kiểm định.

Bộ Giáo dục và Đào tạo nhận định, những kết quả bước đầu này thể hiện xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng rõ nét trong hoạt động bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình mở rộng kiểm định theo chuẩn quốc tế, góp phần hiện thực hóa mục tiêu về hội nhập giáo dục đại học được nêu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Tuy vậy, để tiến tới hội nhập thực chất và bền vững, hệ thống kiểm định trong nước cần tiếp tục nâng tầm hợp tác từ mức “tham gia” sang “được công nhận lẫn nhau”, đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ hội nhập có chiều sâu, tạo nền tảng để kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam đạt chuẩn khu vực và quốc tế.

Nâng cao năng lực kiểm định - yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hội nhập mới

Ảnh minh họa: Sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành
Ảnh minh họa: Sinh viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

Nhìn nhận về một số thách thức đối với hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam thời gian tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá, đội ngũ kiểm định viên trong nước tuy đã được đào tạo, nhưng vẫn còn thiếu về số lượng và chưa đồng đều về năng lực, đặc biệt là về khả năng tư vấn cải tiến, phân tích dữ liệu và đánh giá năng lực đầu ra. Điều này dẫn đến hạn chế trong việc hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học thực hiện cải tiến liên tục sau kiểm định - vốn là bản chất cốt lõi của một hệ thống QA hiệu quả.

Một vấn đề khác được chỉ ra là Việt Nam hiện vẫn thiếu cơ chế công nhận lẫn nhau về kết quả kiểm định với các quốc gia và tổ chức quốc tế, kết quả kiểm định trong nước chưa được công nhận rộng rãi trong các hoạt động liên kết đào tạo, chuyển tiếp học tập, hay xếp hạng quốc tế.

Bên cạnh đó, sự tham gia của các tổ chức kiểm định trong nước vào các mạng lưới bảo đảm kiểm định chất lượng khu vực và quốc tế còn hạn chế, phần lớn mới dừng ở mức tham gia, quan sát viên, ít có điều kiện tham gia hoạch định tiêu chuẩn tầm cỡ quốc tế hay tham gia đào tạo, trao đổi chuyên gia, do thiếu chính sách hỗ trợ lâu dài và đầu tư bài bản.

Giai đoạn 2026-2030 được dự báo sẽ đặt ra những yêu cầu mới, sâu hơn về hội nhập quốc tế, xếp hạng, chuyển đổi số và trách nhiệm giải trình trong giáo dục đại học. Đây cũng là giai đoạn giáo dục đại học Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng theo yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 281/NQ-CP và dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi.

Chính vì vậy, nhằm hiện thực hóa mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, với bảo đảm và kiểm định chất lượng là nền tảng cốt lõi của mô hình quản trị hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định một số định hướng và nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

Trước hết, đối với cơ quan quản lý nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo định hướng xây dựng cơ chế phân loại các cơ sở giáo dục đại học theo mức độ phát triển về bảo đảm chất lượng dựa trên hệ thống IQA và kết quả kiểm định. Trên cơ sở đó, đề xuất các chính sách hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư có điều kiện và giám sát phù hợp, đảm bảo nguyên tắc phân tầng và phát triển đồng bộ hệ thống.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng định hướng nâng cao vai trò điều phối và giám sát của Cục Quản lý chất lượng trong hệ thống bảo đảm chất lượng quốc gia. Bên cạnh đó, thành lập Trung tâm phân tích dữ liệu QA quốc gia, kết nối với HEMIS, SAHEP và các hệ thống kiểm định, phục vụ theo dõi chất lượng theo thời gian thực và hỗ trợ ra quyết định chính sách dựa trên dữ liệu.

Song song với đó, rà soát, điều chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật để lồng ghép yêu cầu QA như điều kiện gián tiếp trong mở ngành, đầu tư, phân tầng, xếp hạng và giao quyền tự chủ.

Việc đề xuất cơ chế đầu tư công có điều kiện cũng được xem là giải pháp thúc đẩy các cơ sở giáo dục chưa kiểm định nhanh chóng hoàn thiện tiêu chuẩn, đồng thời khuyến khích các trường mạnh tham gia kiểm định quốc tế.

Một hướng đi đáng chú ý khác là thí điểm mô hình kiểm định nhóm ngành, nhằm thúc đẩy chuẩn hóa liên ngành, tiết kiệm chi phí và tăng cường chia sẻ kinh nghiệm giữa các chương trình đào tạo.

Đối với các cơ sở giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến nghị triển khai lộ trình phù hợp với từng nhóm năng lực.

Trong khi đó, các cơ sở có năng lực nổi trội được khuyến khích tham gia kiểm định quốc tế, công bố minh bạch dữ liệu đầu ra và tích cực tham gia các bảng xếp hạng học thuật.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng nhấn mạnh yêu cầu chuẩn hóa năng lực đội ngũ làm công tác bảo đảm chất lượng thông qua đào tạo, bồi dưỡng định kỳ, đồng thời gắn trách nhiệm QA với đánh giá hiệu quả đơn vị và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu.

Đồng thời, ứng dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn trong vận hành hệ thống QA nội bộ, tăng cường sử dụng dữ liệu trong các quyết định chiến lược và cải tiến học thuật.

Đối với các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo định hướng tái cấu trúc tổ chức theo hướng chuyên nghiệp, tinh gọn, hoạt động hiệu quả, bảo đảm tính độc lập chuyên môn, minh bạch và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Mỗi tổ chức cần có chiến lược trung hạn và dài hạn phát triển năng lực tổ chức, công nghệ và nhân sự.

Tăng cường năng lực thể chế và chuyên môn, bảo đảm tuân thủ các quy định hiện hành và từng bước tiệm cận chuẩn quốc tế. Thiết lập hệ thống quản lý chất lượng nội bộ, công khai quy trình, kết quả và khuyến nghị cải tiến.

Phát triển đội ngũ kiểm định viên chuyên sâu theo lĩnh vực đào tạo, có kỹ năng số, năng lực tư vấn cải tiến và khả năng đánh giá liên văn hóa.

Tham gia mạng lưới quốc tế và thiết lập các thỏa thuận công nhận lẫn nhau với tổ chức QA khu vực và toàn cầu. Đến 2030, trên 50% tổ chức kiểm định trong nước đạt ít nhất một thỏa thuận công nhận kết quả kiểm định lẫn nhau quốc tế (MRA).

Cùng với đó, đổi mới phương thức đánh giá ngoài theo hướng sử dụng dữ liệu thực chứng, số hóa quy trình đánh giá và tăng tính khách quan, minh bạch.

Minh Chi