Dự thảo Thông tư Quy định chuẩn nghề nghiệp giảng viên giảng dạy trong cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tiếp tục nhận được nhiều sự quan tâm, góp ý xây dựng. Dự thảo hết hạn lấy ý kiến ngày 31/10/2025.
Một trong những nội dung đáng chú ý trong dự thảo thông tư là bỏ quy định về nhiệm vụ, chuẩn nghề nghiệp của chức danh trợ giảng (hạng III, mã số V.07.01.23). Chức danh giảng viên dự kiến: Giảng viên đại học, Giảng viên đại học chính và giảng viên đại học cao cấp. Ngoài ra, dự thảo cũng bổ sung thêm một số nhiệm vụ mới cho giảng viên.
Một số lãnh đạo cơ sở giáo dục chia sẻ rằng, những quy định mới trong dự thảo thể hiện xu hướng chuyên nghiệp hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên theo hội nhập quốc tế.
Cần có hướng dẫn cụ thể về cơ chế tạo nguồn giảng viên khi bỏ chức danh trợ giảng
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Thái Nguyên cho biết, hiện là thời điểm quan trọng để các trường tái cấu trúc chính sách nhân sự, khuyến khích đổi mới sáng tạo và bồi dưỡng năng lực giảng viên, hướng tới hệ thống giáo dục đại học tự chủ – sáng tạo – phục vụ cộng đồng.
"Trong bối cảnh tự chủ đại học, mỗi giảng viên cần được xem như một chủ thể độc lập về chuyên môn, có năng lực giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Ở nhiều quốc gia phát triển, không tồn tại ngạch trợ giảng như một chức danh nghề nghiệp độc lập, thay vào đó, các giảng viên trẻ được tuyển vào vị trí giảng viên với cơ chế hỗ trợ, hướng dẫn và đánh giá theo năng lực trong những năm đầu. Tuy nhiên, ở nước ta, nếu áp dụng cơ học việc bỏ chức danh trợ giảng mà không có cơ chế chuyển tiếp và hỗ trợ phù hợp thì có thể gây khó khăn cho cơ sở giáo dục đại học trong khâu tạo nguồn và phát triển đội ngũ”, thầy Nghĩa chia sẻ.
Thầy Nghĩa cũng cho rằng, hiện nhiều trường đại học, đặc biệt là các trường địa phương hoặc trường mới thành lập hoặc với các ngành chuyên sâu,... vẫn cần đội ngũ trợ giảng làm nguồn kế cận. Họ là những người mới tốt nghiệp đại học, có năng lực chuyên môn tốt nhưng chưa đủ điều kiện trở thành giảng viên (ví dụ như chưa có bằng thạc sĩ hoặc chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm).
Nếu không có cơ chế linh hoạt hoặc vị trí chuyển tiếp, như “giảng viên tập sự”, “nghiên cứu viên hướng giảng dạy” hay “trợ giảng có lộ trình phát triển”, các trường sẽ gặp khó trong việc thu hút nhân lực trẻ, cử đi đào tạo sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ ở trong và ngoài nước), đặc biệt ở những vùng không có nhiều nguồn tiến sĩ.
Do đó, cùng với việc bỏ chức danh trợ giảng, theo thầy Nghĩa, cần ban hành hướng dẫn cụ thể về cơ chế tạo nguồn, bồi dưỡng và bổ nhiệm giảng viên, để vừa đảm bảo chất lượng đội ngũ đầu vào, vừa không làm gián đoạn công tác đào tạo và phát triển nhân sự trong hệ thống giáo dục đại học.
Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân - Trưởng phòng Phòng Đào tạo, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Xu hướng chung là đội ngũ giảng viên đại học cần phải nâng cao trình độ, chuyên môn, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới nên việc bỏ chức danh trợ giảng sẽ góp phần nâng cao chuẩn nghề nghiệp giảng viên đại học ngay từ đầu. Tuy nhiên, việc bỏ chức danh trợ giảng có phần hơi đáng tiếc, bởi trong thực tế hiện đội ngũ này có thể hỗ trợ rất nhiều cho giảng viên".
Đánh giá về việc dự thảo thông tư quy định không còn phân hạng giảng viên I, II, III như trước, Tiến sĩ Nguyễn Trung Nhân nhận định cách tiếp cận mới này giúp các trường chủ động hơn trong đánh giá, quản lý và phát triển đội ngũ giảng viên.
“Việc phân cấp năng lực giảng viên theo khung chuẩn sẽ phù hợp và linh hoạt hơn, phản ánh đúng thực chất năng lực giảng dạy và nghiên cứu của giảng viên, thay vì phải dựa vào thi cử phức tạp, phân chia hạng như trước”, thầy Nhân chia sẻ.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Nhiên – Trưởng khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ảnh: Mai Anh
Mặt khác, Tiến sĩ Nguyễn Duy Nhiên - Trưởng khoa Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng, Dự thảo thông tư bỏ quy định về nhiệm vụ, chuẩn nghề nghiệp của chức danh trợ giảng là bước đi hợp lý. Khi đó, trợ giảng không còn là một chức danh nghề nghiệp độc lập gắn với thang bảng lương hay vị trí việc làm cụ thể. Công việc của những trợ giảng có thể chuyển sang ghi trên hợp đồng lao động là “giảng viên tạo nguồn”, và có thể hiểu là người đang trong giai đoạn bồi dưỡng để trở thành giảng viên chính thức.
Cùng đưa ra quan điểm, Tiến sĩ Phạm Hiệp - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục và Chuyển giao tri thức (Trường Đại học Thành Đô) cho rằng, việc bỏ chức danh trợ giảng là phù hợp với xu hướng quản trị đại học hiện nay, song vẫn cần duy trì đội ngũ đảm nhận công việc trợ giảng dưới hình thức linh hoạt hơn. “Bỏ chức danh này là đúng, nhưng công việc của trợ giảng thì vẫn rất cần thiết”, Tiến sĩ Hiệp chia sẻ.
Theo đó, chúng ta không nên duy trì mã số viên chức cho vị trí trợ giảng, mà nên để các trường tự quyết định theo nhu cầu. Công việc của trợ giảng có thể tổ chức theo dạng hợp đồng lao động hoặc giao cho các nghiên cứu sinh. Điều này vừa hỗ trợ giảng viên, vừa giúp nghiên cứu sinh tích lũy kinh nghiệm thực tế, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu sinh phải tham gia hoạt động chuyên môn tại cơ sở đào tạo.
Hình thành đội ngũ giảng viên có năng lực nghiên cứu, sáng tạo, phục vụ xã hội
Theo dự thảo, giảng viên giảng dạy tại cơ sở giáo dục đại học có nhiệm vụ chung là chủ trì hoặc tham gia phát triển thế giới nghề nghiệp và phục vụ cộng đồng. Đánh giá về nội dung này, thầy Nghĩa cho rằng đây là điểm rất tiến bộ, phản ánh đúng tinh thần của giáo dục đại học hiện đại, gắn liền giữa nhà trường và xã hội.
“Trước đây, giảng viên thường được nhìn nhận chủ yếu với hai chức năng: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, giảng viên còn có trách nhiệm kết nối tri thức với thực tiễn, tham gia phát triển nghề nghiệp của sinh viên, doanh nghiệp, và cộng đồng.
Bên cạnh đó, nội dung “phát triển thế giới nghề nghiệp” nhấn mạnh vai trò đồng kiến tạo giữa nhà trường và xã hội. Khi đó giảng viên không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn là người đồng hành, tư vấn, và chuyển giao tri thức để tạo ra giá trị xã hội mới. Vì vậy, việc bổ sung nhiệm vụ “chủ trì hoặc tham gia phát triển thế giới nghề nghiệp và phục vụ cộng đồng” trong dự thảo là hợp lý, góp phần nâng cao nhận thức của giảng viên về trách nhiệm xã hội, đồng thời giúp các trường định hướng chiến lược gắn kết cộng đồng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển bền vững", thầy Nghĩa chia sẻ.
Ngoài nhiệm vụ chung, dự thảo cũng quy định những tiêu chuẩn riêng cho từng chức danh giảng viên. Điều này cho thấy sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về vị thế học thuật và nghề nghiệp của giảng viên.
Theo thầy Nghĩa, quy định mới phân tầng rõ vai trò phát triển học thuật theo từng cấp độ, thể hiện con đường nghề nghiệp có định hướng và có thể đo lường được. Mỗi chức danh mang tính hành chính và cấp độ trưởng thành nghề nghiệp. Cụ thể như: giảng viên đại học làm chủ học phần, phát triển chương trình và nội dung giảng dạy; giảng viên chính trở thành người hướng dẫn nghiên cứu, bồi dưỡng học viên và sinh viên; giảng viên cao cấp đóng vai trò tư vấn, dẫn dắt và phát triển đội ngũ.
“Những nhiệm vụ mới đòi hỏi giảng viên phải nâng cao năng lực nghiên cứu, cập nhật công nghệ, đổi mới phương pháp dạy học và có tinh thần chia sẻ tri thức. Tuy nhiên, nếu các trường có cơ chế hỗ trợ hợp lý như giảm tải hành chính, tăng thời gian nghiên cứu, hoặc có chính sách thăng tiến rõ ràng, những yêu cầu mới sẽ trở thành động lực phát triển nghề nghiệp, không phải gánh nặng cho giảng viên”, thầy Nghĩa chia sẻ thêm.
Còn theo thầy Nghĩa, về tổng thể, các tiêu chuẩn xét thăng hạng mới giúp nâng tầm đội ngũ giảng viên Việt Nam, tạo động lực để các trường đại học tự chủ, minh bạch hơn trong đánh giá năng lực và phát triển nhân sự; là hướng đi đúng, giúp hình thành đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp, có năng lực nghiên cứu, sáng tạo và phục vụ xã hội.
Ví dụ như yêu cầu giảng viên có sách ISBN và bài báo khoa học ISSN giúp định lượng rõ năng lực nghiên cứu, đồng thời khuyến khích họ tham gia hệ sinh thái học thuật toàn cầu. Điều này cũng tạo sức ép tích cực để các trường đầu tư mạnh hơn cho môi trường nghiên cứu, dữ liệu học thuật, và hợp tác quốc tế. Song, để đảm bảo tính khả thi, cần có cơ chế chuyển tiếp linh hoạt, vì không phải mọi lĩnh vực hay cơ sở đào tạo đều có điều kiện công bố quốc tế như nhau.