Xây dựng văn hóa ứng phó thiên tai: Một khoảng trống giáo dục cần được lấp lại

24/11/2025 06:30
Hướng Sáng

GDVN -Khi trẻ được trang bị kĩ năng ứng phó từ nhỏ, chúng lớn lên thành những công dân tự chủ, biết đánh giá rủi ro, biết bảo vệ bản thân và hỗ trợ cộng đồng.

Những năm gần đây, mưa bão và lũ lụt dường như đến dồn dập hơn, bất thường hơn và tàn phá nặng nề hơn. Chỉ cần quan sát một mùa mưa bão ở miền Trung, người ta có thể cảm nhận rất rõ: thiên nhiên đang chuyển sang trạng thái cực đoan, còn xã hội thì vẫn loay hoay trong cách ứng phó. Điều đáng suy ngẫm không phải chỉ là thiệt hại về vật chất, mà còn là cách chúng ta phản ứng trước hiểm họa. Mỗi đợt lũ đi qua, trên một số diễn đàn lại xuất hiện những vòng xoáy quen thuộc: đổ lỗi, phàn nàn, trách móc, than vãn.

Tâm lí ấy, nếu chỉ xuất hiện ở vài cá nhân, ta có thể xem như chuyện nhỏ. Nhưng khi nó trở thành điệu bộ phổ biến thì không còn là câu chuyện cảm xúc nhất thời, mà là dấu hiệu của một “lỗ hổng văn hóa”, và sâu hơn là khoảng trống trong giáo dục. Ứng phó với thiên tai không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chuyên môn; đó phải là năng lực của mỗi người dân. Khi năng lực ấy không được hình thành, xã hội sẽ dễ nghiêng về tâm lí chờ đợi, thụ động, cầu may - tức những điều đi ngược lại với khả năng tự vệ của một cộng đồng hiện đại.

mua-lu-17637165259221181112200.jpg
Đợt mưa, lũ bất thường, đặc biệt lớn những ngày 16/11 đến ngày 20/11/2025 tại khu vực các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Lâm Đồng gây thiệt hại rất nặng nề về người và tài sản. Ảnh: nguồn Báo Chính phủ

Một nghịch lí đang hiện hữu

Không khó để bắt gặp những cuộc tranh luận căng thẳng mỗi khi bão lũ đến gần: bên này cho rằng thủy điện phải chịu trách nhiệm; bên kia cho rằng dự báo chưa chính xác; bên khác lại quy trách nhiệm cho chính quyền địa phương. Trong khi đó, điều quan trọng hơn - sự chuẩn bị và năng lực ứng phó của người dân - lại ít được đề cập. Càng nghịch lí hơn khi một số học sinh, sinh viên lên mạng “mong được nghỉ học” mỗi khi nghe tin mưa lớn. Nhiều diễn đàn mạng xã hội đôi khi đầy ắp tâm lí chờ thông báo nghỉ thay vì thảo luận xem khu vực mình có nguy cơ gì, đường đi học hôm nay an toàn ra sao, hay cần trang bị gì để chủ động hơn.

Hiện tượng này không phải để phê phán người trẻ. Nó chỉ phản ánh đúng thực tế rằng các em chưa được rèn luyện những kĩ năng cơ bản để đánh giá rủi ro, chuẩn bị trước tình huống hoặc tổ chức hành động khi cần thiết.

Nhìn sang Nhật Bản để thấy sự khác biệt nằm ở đâu

Nhật Bản cũng là một quốc gia thường xuyên đối diện với bão lớn, động đất và sóng thần. Nhưng điều gây ấn tượng không phải là quy mô hạ tầng hay trình độ công nghệ của họ, mà là sự bình tĩnh của người dân trong thảm họa. Trẻ em Nhật Bản thuộc lòng các tuyến sơ tán. Gia đình nào cũng có túi cứu nạn. Nhà trường diễn tập nhiều lần mỗi năm, với kịch bản chi tiết, phân vai rõ ràng, không mang tính hình thức. Khi kịch bản được kích hoạt, mọi người di chuyển đúng vị trí, đúng vai, đúng phần việc của mình như thể đó là một phản xạ tự nhiên.

Sự bình tĩnh ấy không đến từ “tinh thần dân tộc” vốn có, mà từ một quá trình giáo dục bền bỉ và nhất quán. Kĩ năng sinh tồn không được xem là nội dung phụ, mà là một phần của năng lực công dân. Người Nhật không chờ thiên tai đến rồi mới dạy người dân phải làm gì; họ đào tạo từ rất sớm để mỗi người đều trở thành một “đơn vị tự chủ” trong hệ thống ứng phó cộng đồng.

Nếu nhìn từ bài học ấy, ta có thể nhận ra điều mà Việt Nam còn thiếu: không phải kiến thức, không phải lòng nhân ái, mà chính là khả năng biến hiểu biết thành hành động thực tế khi cần thiết.

Khoảng trống giáo dục ở Việt Nam: Lí thuyết nhiều, thực hành ít

Trong chương trình học, chúng ta vẫn có những bài học về bão, lũ, sạt lở, biến đổi khí hậu. Nhưng chúng hiện diện chủ yếu ở dạng thông tin, khó tạo ra kĩ năng. Không nhiều trường có hoạt động diễn tập thoát hiểm bài bản; càng hiếm các bài học trải nghiệm gắn với bối cảnh địa phương như: thoát hiểm trong lũ quét, nhận diện vùng sạt lở, đọc bản đồ cảnh báo nguy cơ, chuẩn bị nhà cửa trước mùa mưa, hay sử dụng bộ dụng cụ cứu hộ cá nhân.

Trong khi đó, truyền thông xã hội lại thường “nhảy cóc” từ không khí bình yên sang tâm lí hoảng loạn: hoặc là không quan tâm, hoặc là chia sẻ dồn dập thông tin, nhiều khi thiếu kiểm chứng. Kĩ năng chọn lọc và xử lí thông tin rủi ro cũng còn hạn chế. Cơ chế phối hợp giữa nhà trường - gia đình - địa phương chưa tạo thành một hệ thống thống nhất để rèn luyện cho cộng đồng những kĩ năng ứng phó căn bản.

Vì thiếu thói quen đó, mỗi khi mưa bão xuất hiện, xã hội thường rơi vào hai trạng thái: hoặc quá lo lắng, hoặc quá chủ quan. Cả hai đều dễ dẫn đến hậu quả đáng tiếc.

Xây dựng văn hóa ứng phó: từ kiến thức đến hành động

Thế giới ngày nay đều xem năng lực ứng phó thiên tai là một phần của “văn hóa an toàn”. Văn hóa ấy không được tạo ra nhờ một chiến dịch tuyên truyền, mà từ sự kết hợp của giáo dục, truyền thông và thực hành xã hội. Để từng bước hình thành văn hóa ứng phó ở Việt Nam, có thể khởi đầu từ một số hướng sau:

Trước hết, nhà trường cần coi kĩ năng ứng phó thiên tai là một năng lực thiết yếu, được lồng ghép xuyên suốt chương trình. Những bài học mô phỏng tình huống, hoạt động trải nghiệm, diễn tập định kì cần trở thành nếp quen chứ không phải hoạt động phong trào. Điều này không đòi hỏi chi phí lớn; quan trọng là sự đều đặn và nghiêm túc.

Thứ hai, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí cần được bồi dưỡng năng lực tổ chức các hoạt động ứng phó. Một bài tập sơ tán hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào khả năng điều phối của người đứng đầu và sự nhất quán của hệ thống nhà trường. Khi giáo viên tự tin, học sinh sẽ học được cách bình tĩnh và chủ động.

Thứ ba, truyền thông cần chuyển từ việc đưa tin thiên tai sang việc hướng dẫn cộng đồng ứng phó. Mỗi bản tin thời tiết có thể trở thành một “bài học nhỏ” cho người dân: cách đánh giá rủi ro theo khu vực, cách chuẩn bị trước 24 giờ, 12 giờ, 6 giờ; những sai lầm phổ biến khi di chuyển trong bão lũ; những hành vi giúp bảo đảm an toàn cho người xung quanh.

Thứ tư, địa phương và cộng đồng cần xây dựng bộ quy trình ứng phó phù hợp với điều kiện thực tế của mình. Miền núi khác đồng bằng; vùng ven sông khác vùng ven biển. Khi mỗi cộng đồng có “kịch bản riêng”, người dân sẽ dễ gắn bó và thực hiện hơn. Chỉ khi có sự phối hợp toàn diện - nhà trường, gia đình, chính quyền thì văn hóa ứng phó mới thực sự hình thành.

Hướng đến một xã hội tự chủ trước biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu không chờ đến khi chúng ta sẵn sàng. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi cách chuẩn bị. Một xã hội có năng lực ứng phó tốt không phải là xã hội có ít thiên tai, mà là xã hội biết biến thiên tai thành bài kiểm tra cho khả năng tự tổ chức. Khi mỗi người dân đều có kĩ năng và thái độ đúng, thiệt hại sẽ giảm đi rất nhiều mà không cần những biện pháp cưỡng chế mạnh.

Từ góc nhìn đó, giáo dục đóng vai trò then chốt. Giáo dục không chỉ dạy học sinh công thức, định luật hay kiến thức sách vở; giáo dục còn phải bồi dưỡng năng lực sinh tồn - một năng lực đang trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết trong thời kì khí hậu bất định. Khi trẻ em được trang bị kĩ năng ứng phó ngay từ nhỏ, chúng lớn lên thành những công dân tự chủ, biết đánh giá rủi ro, biết bảo vệ bản thân và biết hỗ trợ cộng đồng.

Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng được văn hóa ứng phó thiên tai như Nhật Bản hay nhiều quốc gia khác. Chúng ta có tinh thần cộng đồng mạnh mẽ, có truyền thống tương thân tương ái, và có một nền giáo dục đang chuyển mình với nhiều đổi mới quan trọng. Việc cần lúc này là đặt năng lực ứng phó thiên tai vào đúng vị trí của nó: như một mục tiêu giáo dục, một nếp sống văn hóa và một cam kết xã hội.

Khi đó, mỗi mùa mưa bão đi qua sẽ không chỉ là câu chuyện của thiệt hại, mà còn là câu chuyện của sự trưởng thành. Và đất nước sẽ bền vững hơn, không phải vì thiên nhiên ưu đãi, mà vì con người biết cách sống an toàn - chủ động - vững vàng trong một thế giới ngày càng nhiều biến động.

Hướng Sáng