Nhiều ngành khoa học xã hội dù ý nghĩa nhưng phải dừng đào tạo vì nhu cầu thị trường hạn chế

16/12/2025 06:28
Đình Nam

GDVN -Theo đại diện một số đơn vị, khi mở ngành hay đóng ngành, trường cần theo sát nhu cầu xã hội để phù hợp với thị trường và mức độ quan tâm của người học.

Tại diễn đàn khoa học “Đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh mới” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, các chuyên gia, lãnh đạo trường đại học đã thẳng thắn chỉ ra những khó khăn đang diễn ra trong đào tạo và nghiên cứu các ngành xã hội hiện nay. [1]

Theo đó, đại diện nhiều trường đại học cho rằng mặc dù có những ngành rất hay và ý nghĩa, nhưng sau một thời gian, nhà trường phải phải tạm dừng đào tạo do thị trường lao động không còn nhu cầu, sinh viên tốt nghiệp ít có cơ hội việc làm.

Sức hút giảm vì cơ hội việc làm khó, mức lương thấp

Theo thông tin tuyển sinh và đề án tuyển sinh được đăng tải trên website của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, ngành Gia đình học được đưa vào đào tạo từ năm 2015. Tuy nhiên, đến năm 2021, ngành học này không còn nằm trong danh mục các ngành được phép đào tạo tại nhà trường. Một số ngành khác trường cũng tuyển được khá ít sinh viên như: Văn hóa dân tộc thiểu số, Di sản, Văn hóa học...

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Toản - Trưởng khoa, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội thừa nhận các ngành khối khoa học xã hội và nhân văn dù có giá trị, ý nghĩa nhưng lại khó thu hút người học do hạn chế về đầu ra.

Nhìn chung, so với khối kinh tế - kỹ thuật, sinh viên khối ngành khoa học xã hội và nhân văn gặp nhiều khó khăn hơn khi tìm việc làm sau khi ra trường. Bối cảnh xã hội hiện nay đang vận hành theo xu thế công nghiệp 4.0, giúp các ngành liên quan đến công nghệ, kỹ thuật, máy tính, phần mềm… có nhu cầu lớn và mức thu nhập hấp dẫn.

thay-toan-dhvn.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Toản - Trưởng khoa, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Ảnh: website nhà trường

Trong khi đó, nhiều ngành truyền thống của khối khoa học xã hội và nhân văn như lịch sử, bảo tàng hay văn hóa các dân tộc thiểu số,... lại có ít vị trí việc làm, mức lương không cao, dẫn đến sức hút giảm sút.

“Nguyên nhân lớn nhất khiến thí sinh ít chọn các ngành khoa học xã hội và nhân văn là sau tốt nghiệp người học khó tìm được việc làm phù hợp hoặc mức lương vẫn còn thấp. Đây là thực tế không thể né tránh. Người học mặc dù có đam mê, nhưng họ cũng phải cân nhắc nhu cầu cuộc sống. Vì vậy, sự lựa chọn mang tính “thực tiễn” là điều dễ hiểu.

Ngoài ra, đặc thù của khối khoa học xã hội và nhân văn là cần nhiều thời gian tích lũy kinh nghiệm, nghiên cứu, đọc tài liệu và va chạm thực tiễn. Những ai thành công trong lĩnh vực này thường trải qua hàng chục năm rèn luyện. Điều đó càng khiến các bạn trẻ e dè khi lựa chọn ngành học.

Tuy nhiên, không phải tất cả các ngành đều giảm sút. Một số ngành truyền thống như bảo tàng hay thư viện từng có thời kỳ tuyển sinh rất ít, nhưng vài năm gần đây nhu cầu đã tăng trở lại nhờ sự mở rộng tuyển dụng của các trường học, các thiết chế văn hóa và sự quan tâm mạnh mẽ đến lĩnh vực di sản”, Trưởng khoa, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho hay.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Đinh Ngọc Thắng - Hiệu trưởng Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Vinh khẳng định nguyên nhân các ngành khoa học xã hội và nhân văn giảm sức hút chủ yếu nằm ở sự lệch pha giữa giá trị học thuật và áp lực của nhu cầu việc làm hiện nay.

Theo thầy Thắng, thực tế hiện nay, tùy thuộc vào nhu cầu đa dạng của xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã bổ sung ngành mới vào danh mục các ngành đào tạo của giáo dục đại học. Tuy nhiên, nhiều ngành từng tồn tại trước đây vốn có thể tìm được việc làm trong cơ quan quản lý Nhà nước, nay lại không còn vị trí việc làm phù hợp do cơ cấu lại bộ máy hành chính.

“Điều này khiến việc tuyển sinh gặp khó khăn hơn. Khi một ngành không tuyển được sinh viên trong ba năm liên tiếp, theo quy định bắt buộc phải dừng đào tạo. Đây là diễn biến bình thường, bởi đào tạo đại học hiện nay phải phục vụ nhu cầu thực tế của xã hội.

Hoạt động đào tạo có hai hướng - đào tạo theo đặt hàng của Nhà nước và đào tạo theo nhu cầu xã hội. Nếu là đặt hàng, Nhà nước phải đảm bảo kinh phí và bố trí đầu ra. Ngược lại, đào tạo theo nhu cầu xã hội thì nhà trường buộc phải bám sát thị trường; ngành nào không có người học đồng nghĩa với việc nhu cầu lao động không còn.

Việc theo đuổi tri thức thuần túy hoặc học để mở rộng vốn văn hóa vẫn sẽ có người lựa chọn, nhưng theo cá nhân tôi tại Việt Nam điều này chưa phổ biến vì phần lớn người học vẫn đặt mục tiêu việc làm lên hàng đầu. Do đó, cơ chế cung - cầu tự nhiên khiến nhiều ngành phải dừng tuyển sinh khi không còn người đăng ký”, Hiệu trưởng Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Vinh nhận định.

thay-thang-khxh-3016.jpg
Tiến sĩ Đinh Ngọc Thắng - Hiệu trưởng Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Vinh. Ảnh: website nhà trường

Trong khi đó, chị Nguyễn Thị Kiều Oanh - cựu sinh viên ngành Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết sau khi ra trường, cử nhân cần có sự linh hoạt và năng động để tìm được công việc có liên quan đến ngành học của mình.

Hiện, chị Oanh đang là tư vấn viên thuộc phòng tuyển sinh của một trường đại học ở khu vực phía Nam.

“Mức thu nhập hiện tại của tôi vào khoảng 10-15 triệu đồng/tháng. Kỹ năng mềm được rèn luyện trong quá trình học tập giúp bản thân tôi thích nghi tốt với môi trường làm việc hiện nay.

Ngành Văn hóa học đa phần đào tạo thiên về hướng tư duy và cung cấp kiến thức nền tảng về văn hóa nên những ai có hứng thú tìm hiểu văn hóa thì có thể cân nhắc theo đuổi”, chị Oanh chia sẻ.

Nhà trường cần chủ động chuyển đổi sang ngành gần, tăng cường liên kết với doanh nghiệp

Trong bối cảnh các ngành có giá trị học thuật - văn hóa khối khoa học xã hội và nhân văn đang khó tuyển sinh hoặc phải tạm dừng đào tạo, giải pháp để cải thiện sức hút đối với người học là điều các cơ sở giáo dục đại học rất trăn trở.

Theo Tiến sĩ Đinh Ngọc Thắng, không nên duy trì ngành học kém sức hút bằng mọi giá. Các nhà trường cần phải tái cấu trúc: xây dựng, đào tạo đội ngũ nhân lực phù hợp để chuyển đổi sang những ngành gần hơn, đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó mở các ngành mới có cơ hội tuyển sinh tốt hơn.

Đây là bài toán sống còn đối với các trường đại học, đặc biệt trong bối cảnh tự chủ hiện nay, khi mỗi trường phải tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đào tạo.

Về giải pháp tăng cường cơ hội việc làm cho sinh viên, Hiệu trưởng Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Vinh nhấn mạnh vai trò của kết nối doanh nghiệp trong toàn bộ chương trình đào tạo.

Chuẩn đầu ra hiện nay yêu cầu sinh viên không chỉ có kiến thức và kỹ năng mà còn phải có khả năng phục vụ cộng đồng và hòa nhập với môi trường làm việc thực tế. Khi xây dựng ngành đào tạo, các trường đã phải khảo sát nhu cầu lao động; trong quá trình đào tạo, họ cần liên kết chặt chẽ với cơ quan, doanh nghiệp để sinh viên được thực tập, làm quen môi trường công việc.

Cơ hội việc làm vì thế phải được mở ra từ năm ba, thay vì đợi đến khi sinh viên tốt nghiệp. Nếu chỉ “đóng khung” hoạt động đào tạo trong trường, sinh viên không có cơ hội thực tế, và nhà tuyển dụng cũng không thể đánh giá đúng năng lực của người học.

Theo thầy Thắng, nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của xã hội, tuy nhiên trong bối cảnh tự chủ, các trường rất khó duy trì nếu không có chính sách hỗ trợ.

“Nhà nước cần có cơ chế đặc thù đối với một số ngành ít người học nhưng có ý nghĩa chiến lược. Chính sách này có thể được triển khai theo ba hướng: hỗ trợ học phí, cấp học bổng và đảm bảo đầu ra cho sinh viên.

Những biện pháp này tương tự chính sách dành cho sinh viên ngành sư phạm hiện nay. Nếu Nhà nước xác định đây là nhóm ngành thiết yếu, thì cách duy nhất để thu hút người học là tạo ra lộ trình hỗ trợ thực chất - từ kinh phí đến việc làm.

Khi đó, người học mới mạnh dạn theo đuổi những ngành có ý nghĩa xã hội và các trường đại học mới đủ điều kiện duy trì cũng như phát triển lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn”, thầy Thắng cho hay.

582025236-1651700569529798-6420150321014268601-n.jpg
Sinh viên khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Ảnh: website nhà trường

Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Sỹ Toản cho biết, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã triển khai nhiều hoạt động để cải thiện cơ hội việc làm cho sinh viên. Ở cấp trường và cấp khoa, các đơn vị thường xuyên tổ chức tọa đàm, hội thảo nghề nghiệp nhằm giúp sinh viên hiểu rõ đặc thù ngành học, yêu cầu nghề nghiệp và cơ hội phát triển.

Đồng thời, các khoa tích cực kết nối với những cơ quan, doanh nghiệp để hợp tác đào tạo, mời chuyên gia doanh nghiệp tham gia giảng dạy, tạo điều kiện cho sinh viên đi thực tập, làm thêm, thậm chí được tuyển dụng ngay khi còn đang học. Một số chương trình đào tạo mới - như ngành Thông tin thư viện được mở ra theo sát nhu cầu xã hội và đã thu hút ngày càng nhiều thí sinh.

“Những lợi ích của khối khoa học xã hội và nhân văn không dễ đo đếm bằng con số, nhưng lại giữ vai trò sống còn đối với bản sắc văn hóa, giá trị di sản và sự phát triển bền vững của đất nước.

Thời gian qua, Nhà nước cũng đã quan tâm đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực này. Nhưng để phát huy hiệu quả, các chính sách cần được cụ thể hóa hơn. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xác định lại nhu cầu nhân lực, định hướng phát triển ngành nghề và có các chính sách hỗ trợ, ưu tiên cũng như tạo môi trường việc làm tốt hơn cho sinh viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn.

Khi cơ hội nghề nghiệp rõ ràng và thu nhập được cải thiện, sức hút của các ngành này chắc chắn sẽ tăng trở lại”, Trưởng khoa, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội khẳng định.

Tài liệu tham khảo:

[1]: https://vietnamnet.vn/nhieu-nganh-xa-hoi-hay-y-nghia-phai-dong-cua-vi-thi-truong-khong-dung-2462919.html

Đình Nam