“Gánh nặng” cho phụ huynh và nguy cơ thương mại hóa môi trường giáo dục
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga - Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng cũng có một số trao đổi về nguyên nhân và hệ lụy của tình trạng triển khai “dày đặc” chương trình liên kết/tăng cường trong trường mầm non, phổ thông hiện nay.
“Trước hết, phải nhìn nhận rằng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là các kỹ năng ngoại ngữ, tin học, STEM… là nhu cầu có thật và chính đáng của phụ huynh. Điều này phản ánh kỳ vọng của xã hội đối với nhà trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.
Tuy nhiên, việc các chương trình liên kết/tăng cường/bổ trợ được triển khai quá nhiều, thiếu kiểm soát đáng tin cậy, thậm chí “trùng lặp” giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ lại cho thấy một vấn đề khác, đó là sự lỏng lẻo trong quản lý và thiếu chuẩn hóa trong tổ chức thực hiện ở một số trường học.
Nguyên nhân chủ yếu, theo tôi, xuất phát từ ba yếu tố.
Một là, cơ sở pháp lý và hướng dẫn quản lý các chương trình liên kết tuy có nhưng vẫn còn khoảng trống. Các địa phương, nhà trường đôi khi hiểu khác nhau, dẫn đến việc triển khai tùy tiện hoặc quá dễ dãi trong phê duyệt các chương trình liên kết. Một số trường lại “mở cửa” quá rộng cho nhiều đơn vị vào giảng dạy, dẫn đến sự chồng chéo và thiếu thống nhất về nội dung.
Hai là, áp lực từ phụ huynh mong muốn con em mình được học nhiều chương trình nâng cao khiến nhà trường có xu hướng chiều theo nhu cầu, đôi khi vượt quá năng lực quản lý và giám sát thực tế của mình.
Ba là, cơ chế quản lý tài chính đối với các dịch vụ bổ trợ chưa thật sự chặt chẽ. Một số trường có động cơ tăng thu, dẫn đến việc mở nhiều chương trình mà chưa đánh giá kỹ tính cần thiết và hiệu quả thực chất.
Việc để tình trạng này kéo dài có thể gây ra nhiều hệ lụy. Thứ nhất, tạo “gánh nặng” tài chính lớn cho phụ huynh, nhất là khi nhiều chương trình mang tính “bắt buộc ngầm”. Thứ hai, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chính khóa vì học sinh bị “xé nhỏ” thời gian, thiếu sự tập trung. Thứ ba, nguy cơ thương mại hóa môi trường giáo dục, biến trường học - vốn phải là nơi minh bạch và thuần khiết thành nơi dễ phát sinh lợi ích nhóm, thiếu cạnh tranh lành mạnh trong đấu thầu.
Nếu không được chấn chỉnh, tình trạng này có thể làm mất niềm tin của phụ huynh, ảnh hưởng đến mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, và tác động tiêu cực đến sự công bằng trong giáo dục” - nữ đại biểu bày tỏ.
Đồng tình với chia sẻ trên, ông Trần Ngọc Vinh - nguyên Ủy viên Ủy ban Pháp luật (nay là Ủy ban Pháp luật và Tư pháp) của Quốc hội cho rằng, trước hết, các cơ sở giáo dục phải thực hiện nghiêm các quy định liên quan đối với triển khai chương trình liên kết giáo dục trong nhà trường; đồng thời, cơ quan quản lý phải tăng cường công tác kiểm tra, rà soát xem trường nào tổ chức quá nhiều chương trình ngoài chương trình chính khóa, cần xử lý nghiêm.
“Một trường mầm non, phổ thông khi triển khai quá nhiều chương trình liên kết, tăng cường, sẽ tạo ra chương trình học dày đặc, chồng chéo, trước hết sẽ tác động không tốt đến quỹ thời gian của học sinh, học sinh chỉ xoay quanh các tiết học mà không có thời gian để vui chơi, tái tạo lại năng lượng. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã được thiết kế bài bản, khoa học, tại sao lại phải bổ trợ, tăng cường, liên kết thêm nhiều chương trình khác, điều này có thể sẽ tạo ra tác động không tốt.
Mặt khác, ảnh hưởng đến “túi tiền” của phụ huynh khi phát sinh ra nhiều khoản thu tương ứng, đặc biệt, sẽ trở thành “gánh nặng” chi phí với những gia đình không mấy dư dả…” - ông Trần Ngọc Vinh phân tích thêm.
Chính vì những chương trình liên kết/tăng cường/bổ trợ được triển khai dày đặc như vậy trong nhà trường, đã khiến phụ huynh học sinh phải chi trả nhiều khoản hơn mỗi tháng.
Điều này cũng giống như nghịch lý mà Đại biểu Quốc hội Chu Thị Hồng Thái - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn đã đề cập vào chiều ngày 2/12, tại phiên thảo luận của Quốc hội ở hội trường về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Cụ thể, nữ đại biểu chỉ ra: “... Trên danh nghĩa Nhà nước miễn hoặc không tăng học phí, nhưng tổng chi phí giáo dục của người dân lại tăng lên qua các khoản thu ngoài học phí như xã hội hóa, tài trợ, trang thiết bị, trải nghiệm…”.
Chương trình liên kết phải chứng minh được có gì xuất sắc, "ưu việt hơn"?
Liên quan đến nội dung này, ông Lê Như Tiến - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng (nay là Ủy ban văn hóa và Xã hội) của Quốc hội cũng nhìn nhận: “Mặc dù không thể phủ nhận một số chương trình liên kết trong giáo dục cũng là một hình thức tốt, nhưng phải kiểm soát chặt chẽ mô hình này như thế nào để không gây ra sự chồng chéo về chương trình, trong khi chương trình chính khóa cũng đã có những môn tương tự như thế (Tin học, ngoại ngữ…), mà nhà trường lại liên kết với các chương trình về Tin học, ngoại ngữ, sẽ làm “quá tải” cho học sinh.
Thứ hai, khi nhà trường đã có chương trình chính khóa, lại liên kết với chương trình bên ngoài, phải chứng minh được có gì xuất sắc, “ưu việt” hơn, còn nếu không thì không nên triển khai. Vấn đề này, theo tôi, cần phải kiểm tra rất chặt chẽ.
Ngoài ra, còn một vấn đề nữa mà tôi thấy phụ huynh thường phản ánh, đó là hiện tượng “lại quả” đối với các chương trình liên kết. Tức là sau khi các trung tâm, công ty cung cấp dịch vụ phục vụ hoạt động liên kết này đã ký được hợp đồng với trường mầm non, phổ thông, họ sẽ trích lại phần trăm cho nhà trường.
Phải làm rõ, tiền đó vào túi ai? Có phải vì điều đó mà các hợp đồng tiếp tục được ký hay không? Cần làm rõ, việc liên kết các chương trình này thực sự vì chất lượng giáo dục học sinh, hay chỉ vì số phần trăm ấy mà thực hiện, nếu quả như vậy thì “lợi bất cập hại”. Bởi, học sinh thì tham gia những chương trình này không phải miễn phí mà phụ huynh sẽ phải “gánh” thêm các chi phí không đáng có… Đã là đấu thầu công khai, không thể chỉ có duy nhất một nhà thầu “quen mặt”, trong khi trên địa bàn các thành phố lớn, có rất nhiều trung tâm, công ty cùng cung cấp dịch vụ này”.
Cần có đánh giá hiệu quả của các chương trình liên kết/tăng cường
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đồng tình với nhận định cho rằng khi có quá nhiều chương trình cùng lúc được đưa vào nhà trường, việc đánh giá hiệu quả trở nên rất khó khăn.
Cụ thể, nữ đại biểu phân tích: “Về nguyên tắc, chương trình liên kết phải có mục tiêu rõ ràng, có chuẩn đầu ra và có phương pháp đánh giá độc lập. Tuy nhiên, trong thực tế, phần lớn các chương trình này lại không có sự tách bạch giữa kết quả của chương trình liên kết với kết quả của chương trình chính khóa. Điều đó dẫn đến một nghịch lý: học sinh giỏi lên hay tiến bộ rất khó xác định do đâu; nhưng phụ huynh vẫn phải trả chi phí đáng kể.
Việc một số chương trình tồn tại chủ yếu nhằm mục đích thu phí chứ chưa thể hiện được giá trị sư phạm là điều đáng lo ngại. Một chương trình giáo dục bổ trợ chỉ thực sự có ý nghĩa nếu nó bổ sung được những phần mà chương trình chính khóa còn thiếu, chứ không phải “đi lại” những gì giáo viên nhà trường đã dạy. Nếu học sinh dù có hay không tham gia các chương trình liên kết vẫn phải hoàn thành chương trình chính khóa, thì rõ ràng cần đặt câu hỏi: Tại sao phải mở quá nhiều chương trình tốn kém và chồng chéo như vậy?
Tôi cho rằng, khi không tách được đâu là hiệu quả của chương trình chính khóa và đâu là hiệu quả của chương trình liên kết, thì điều này có nguy cơ dẫn đến thương mại hóa giáo dục, gây bất bình đẳng giữa học sinh có điều kiện và học sinh khó khăn. Thậm chí, nếu trường tổ chức giờ học liên kết xen giữa thời khóa biểu chính khóa, vô hình trung khiến những học sinh không tham gia bị “cháy” thời khóa biểu và bị thiệt thòi.
Quan điểm của tôi là: Nếu chương trình liên kết không đủ tính độc lập trong đánh giá, không chứng minh được hiệu quả so với chương trình chính khóa, thì không nên triển khai đại trà. Giáo dục phổ thông ở trường công phải đảm bảo tính công bằng, nền tảng và dựa trên quy chuẩn chung; không thể để các chương trình “ăn theo” làm rối hệ thống, trong khi chất lượng chưa được kiểm chứng”.
Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng cũng chia sẻ: “Trước hết, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, hiện nay các tiêu chí đánh giá đối với chương trình liên kết còn thiếu và yếu. Mỗi đơn vị cung cấp chương trình xây dựng bộ tiêu chí riêng; nhà trường đánh giá theo cảm tính; còn cơ quan quản lý thì khó giám sát vì thiếu công cụ và thiếu dữ liệu. Điều này dẫn đến việc đánh giá thực chất hầu như không thể thực hiện một cách khoa học”.
Theo Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, để đánh giá được thực chất, cần thực hiện ba nhóm giải pháp. Cụ thể như sau:
Một là, phải xây dựng bộ tiêu chí chuẩn ở cấp bộ hoặc cấp địa phương. Bộ tiêu chí này cần bao gồm: chuẩn đầu ra, trình độ giáo viên, phương pháp dạy học, tỉ lệ thời lượng so với chương trình chính khóa, cách thức đánh giá học sinh, hiệu quả qua từng năm học, và mức độ công khai minh bạch tài chính. Bộ tiêu chí phải đồng nhất, không để mỗi trung tâm “tự công bố”.
Hai là, phải có cơ chế kiểm định độc lập. Không thể để trung tâm vừa tổ chức dạy vừa tự đánh giá. Việc đánh giá phải được thực hiện bởi tổ chức độc lập hoặc cơ quan chuyên môn của ngành giáo dục. Tương tự như kiểm định chất lượng trường học, chương trình liên kết cũng phải được kiểm định định kỳ.
Ba là, tăng cường vai trò giám sát của phụ huynh và giáo viên nhà trường. Giáo viên chính khóa mới là người hiểu rõ nhất mức độ tiến bộ của học sinh. Phụ huynh cũng cần được tiếp cận thông tin công khai về hiệu quả chương trình. Nhà trường không thể “đứng ngoài”, mà phải có trách nhiệm đánh giá bảo đảm tính khách quan.
“Ngoài ra, việc thiết lập hệ thống dữ liệu theo dõi tiến bộ của học sinh theo từng chương trình cũng rất quan trọng. Chỉ khi có dữ liệu rõ ràng, minh bạch, chúng ta mới có thể nói tới đánh giá thực chất.
Tóm lại, muốn đánh giá được thực chất thì phải xây dựng “hàng rào kỹ thuật” rõ ràng. Khi chưa có bộ tiêu chí chung, việc đánh giá sẽ luôn rơi vào tình trạng chủ quan, cảm tính và thiếu minh bạch” - nữ đại biểu nhấn mạnh.
Cần siết chặt công tác phê duyệt, minh bạch hóa quy trình đấu thầu và tài chính
Bên cạnh đó, Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga cũng chỉ ra: “Để quản lý tốt các chương trình liên kết, phải quán triệt nguyên tắc quan trọng nhất: mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường phải đặt lợi ích của học sinh lên hàng đầu, đồng thời đảm bảo tính công bằng, minh bạch.
Tôi có một số nhóm đề xuất sau:
Một là, siết chặt công tác phê duyệt. Chỉ những chương trình thật sự cần thiết, không trùng với chương trình chính khóa, có hiệu quả sư phạm rõ ràng và có khả năng đáp ứng năng lực quản lý của nhà trường thì mới được triển khai.
Hai là, quản lý chặt chẽ đội ngũ giáo viên tham gia chương trình. Các trung tâm phải chứng minh năng lực, bằng cấp của giáo viên; cơ quan chức năng phải kiểm tra thực tế. Không thể để xảy ra tình trạng người dạy tiếng Anh mà không có bằng cấp đạt chuẩn, điều này không chỉ vi phạm chuẩn nghề nghiệp mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dạy học.
Ba là, minh bạch hóa quy trình đấu thầu và tài chính. Các chương trình liên kết phải đấu thầu cạnh tranh, nhiều đơn vị tham gia, tránh tình trạng “một mình một chợ”. Nhà trường phải công khai mức thu, mức chi, đối tác liên kết, trách nhiệm các bên. Cơ quan quản lý cấp trên phải kiểm tra thường xuyên để tránh tiêu cực, lợi ích nhóm.
Bốn là, đảm bảo quyền lựa chọn của phụ huynh. Chương trình liên kết phải trên tinh thần tự nguyện. Tuyệt đối không được tổ chức giờ học liên kết xen giữa thời khóa biểu chính khóa, để những học sinh không tham gia rơi vào thế bị động hoặc thiệt thòi.
Cuối cùng, tôi cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất trên toàn quốc để chấm dứt tình trạng “mạnh ai nấy làm”. Chỉ khi có khung pháp lý rõ ràng, có cơ chế kiểm soát minh bạch và có sự tham gia giám sát của phụ huynh thì các chương trình liên kết mới thực sự trở thành công cụ hỗ trợ giáo dục chứ không phải “gánh nặng” hay nguy cơ thương mại hóa trường học”.