Siết chặt đào tạo ngành Luật: Nên thu gọn quy mô hay điều kiện đảm bảo chất lượng?

12/12/2025 09:11
Diệu Dương

GDVN - Nhiều ý kiến cho rằng cần xây dựng chuẩn đánh giá chất lượng đầu ra thống nhất về đội ngũ giảng viên, hệ thống thực hành thực tập, mạng lưới hợp tác,...

Chủ trương siết chặt đào tạo bác sĩ, cử nhân luật theo hướng "chỉ cho phép trường y đào tạo bác sĩ và trường luật đào tạo cử nhân luật, chỉ cho phép dạy luật như một môn phối hợp" đang nhận được nhiều ý kiến bàn luận.

Nhiều ý kiến cho rằng chủ trương này hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo và chuẩn hóa đầu ra nhưng cũng đặt ra câu hỏi về tính linh hoạt của hệ thống giáo dục đại học trong bối cảnh thế giới đang phát triển mô hình mở và liên ngành, khi nhiều trường đào tạo kinh tế, ngoại thương, ngân hàng, thương mại,… giảng dạy luật với định hướng ứng dụng và thường tập trung vào các lĩnh vực mà trường có thế mạnh.

Chuẩn hóa chương trình đào tạo là yếu tố quan trọng

Có thể nói, ngành luật là môt lĩnh vực đặc thù vì đào tạo ra những chức danh đặc biệt, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội với việc bảo vệ công lý hay bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Chia sẻ về vấn đề này, Đại biểu Quốc hội Trương Xuân Cừ - Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội bày tỏ đồng tình với quan điểm siết chất lượng đào tạo ở ngành luật là cần thiết, bởi đây là một trong những ngành quan trọng, đòi hỏi nền tảng kiến thức vững chắc và năng lực chuyên môn sâu. Vì vậy, việc quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo là điều nhiều quốc gia phát triển trên thế giới cũng đang áp dụng để bảo đảm nguồn nhân lực đạt trình độ cao.

Song, việc đánh giá trường đại học hay khoa nào tồn tại cần được thực hiện dựa trên tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Điều này cần được tiến hành rà soát, đánh giá một cách toàn diện và nghiêm túc trước khi xem xét vấn đề quy hoạch, tái cơ cấu đối với hệ thống giáo dục đại học. Trọng tâm của mục tiêu siết chặt đào tạo nằm ở việc phải xem xét đầy đủ các điều kiện bảo đảm chất lượng như năng lực và số lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, cũng như chất lượng được kiểm nghiệm qua quá trình đào tạo, chuẩn đầu ra.

Ngoài ra, vấn đề ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cũng được xem là tiêu chí quan trọng để xem xét những đơn vị nào thực sự đầu tư nghiêm túc. Thực tế cho thấy nhiều khoa luật tại một số trường đại học vẫn được đánh giá có chất lượng rất cao. Nhiều trường đại học thời gian qua đã đầu tư đáng kể vào cơ sở vật chất, xây dựng đội ngũ giảng viên cũng như phát triển mạng lưới hợp tác với viện kiểm sát, tòa án và nhiều đơn vị liên quan.

Điều này phản ánh sự nỗ lực và quyết tâm của các cơ sở đào tạo trong việc nâng cao chuẩn đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của xã hội đối với đội ngũ nhân lực pháp lý. Do đó cần bảo đảm chủ trương siết lại đào tạo cử nhân luật được triển khai một cách hài hòa, hạn chế tối đa xáo trộn, cần có lộ trình phù hợp và giải pháp thực hiện hợp lý. Việc xác định trường nào, khoa nào được phép đào tạo ngành luật cần dựa trên năng lực thực tế như đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chất lượng chương trình.

586574720-1425222622945845-7597395077052559526-n.jpg
Ảnh minh họa: Khoa Luật, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh.

Đặc biệt với bối cảnh hiện nay, để đáp ứng môi trường pháp lý trong các lĩnh vực ngày càng phức tạp, người học cần được trang bị cả nền tảng về kinh tế, tài chính, quản trị,... nhằm phục vụ hiệu quả cho nghề nghiệp sau này. Bởi lẽ, doanh nghiệp hiện nay khi tuyển pháp chế đều mong muốn ứng viên hiểu hoạt động kinh doanh, phân tích rủi ro và có tư duy quản trị. Vì vậy, việc các trường đại học có thế mạnh về kinh tế, ngoại thương, ngân hàng hay thương mại tham gia đào tạo ngành luật theo định hướng ứng dụng cũng là một lợi thế giúp người học tiếp cận pháp luật trong mối liên hệ chặt chẽ với kinh tế - xã hội khi bước vào thị trường lao động.

Theo đó, việc xây dựng bộ tiêu chuẩn chung để bảo đảm chất lượng đào tạo cử nhân luật trên phạm vi toàn quốc là cần thiết. Trong đó, cần quy định điểm sàn tuyển sinh đại học ngành luật để bảo đảm chất lượng đầu vào, tránh tình trạng tuyển sinh ồ ạt làm giảm chất lượng đào tạo; đưa ra điều kiện rõ ràng về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất,… để được mở ngành cũng như duy trì đào tạo cử nhân luật. Trường hợp những đơn vị đang đào tạo nhưng không đáp ứng được yêu cầu có thể xem xét phải dừng tuyển sinh.

Đồng thời, xây dựng chuẩn đánh giá chất lượng đầu ra thống nhất trên toàn quốc giúp tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng cử nhân ngành luật có cơ sở rõ ràng khi tìm kiếm nhân sự pháp lý phù hợp. Đối với các trường hợp cơ sở đào tạo không đáp ứng được chất lượng, phải siết chặt lại, thậm chí sáp nhập, giải thể, quy hoạch, Nhà nước cần có cơ chế bảo vệ người học bằng cách tạo điều kiện chuyển sang trường đủ điều kiện, được công nhận kết quả học tập đã tích lũy nhằm tránh thiệt hại về thời gian, chi phí và cơ hội nghề nghiệp.

Chất lượng nguồn nhân lực được quyết định bởi những yếu tố nào?

Việt Nam hiện có ba mô hình đào tạo luật: Các trường chuyên ngành luật; khoa luật thuộc đại học đa ngành và bộ môn luật thuộc các khoa trong trường đa ngành.

Cùng trao đổi về vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - giảng viên Trường Đại học Thủy Lợi cho hay, việc tăng cường chất lượng giáo dục đại học là rất cần thiết, đặc biệt đào tạo bác sĩ, giáo viên và cử nhân luật là một trong những lĩnh vực tác động trực tiếp đến đời sống xã hội, liên quan đến quyền lợi, sức khỏe và tri thức của người dân nên cần được quản lý và giám sát chặt chẽ. Song, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không đồng nghĩa với việc thu hẹp quy mô đào tạo hay chỉ đào tạo tập trung ở các trường chuyên ngành.

Thực tiễn cho thấy chất lượng đào tạo luật được quyết định bởi đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra và hệ thống đánh giá, giám sát. Những yếu tố này là thước đo phản ánh chất lượng thực chất. Còn đơn vị đào tạo là “trường đại học luật” hay “khoa luật” chủ yếu thể hiện mô hình tổ chức và cách thức quản lý chứ không phải hoàn toàn là căn cứ quyết định chất lượng đào tạo.

486486302-686986357228895-6749949489448404311-n-1957.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Thủy Lợi.

Từ mô hình đào tạo luật ở nhiều quốc gia có hệ thống giáo dục phát triển như Mỹ, Canada, Anh hay Đức, chưa có nước nào đặt ra yêu cầu rằng chỉ các trường đại học chuyên về luật mới được phép đào tạo cử nhân luật. Nhiều đại học đa ngành sở hữu những khoa luật giữ vị thế chất lượng hàng đầu và đóng góp quan trọng đối với hệ thống pháp luật quốc gia có thể kể đến như Đại học Oxford, Đại học Cambridge tại Anh, nơi ngành luật thuộc khoa luật (Faculty of Law) phụ trách; hay Đại học Chulalongkorn của Thái Lan - trường đa ngành có khoa luật tập trung đào tạo về luật công và luật thương mại, ảnh hưởng sâu rộng đến hệ thống pháp luật Thái Lan.

Trong bối cảnh nhu cầu học luật và làm việc trong lĩnh vực pháp lý ngày càng gia tăng, xã hội đặt ra yêu cầu cao đối với việc bảo đảm cả số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân lực ngành luật. Do đó, việc quy định đào tạo các chức danh nghề nghiệp đặc thù như luật sư, kiểm sát viên, thẩm phán hay điều tra viên tại các cơ sở chuyên ngành là cần thiết nhằm bảo đảm chuẩn mực chuyên môn cao. Đối với đào tạo cử nhân luật, cần tiếp tục duy trì tại các trường đại học có đủ năng lực và đáp ứng chuẩn chất lượng để đáp ứng hiệu quả nhu cầu của xã hội.

Theo quan điểm của một giảng viên Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và bảo đảm thực thi nghiêm túc các quy định hiện hành, đồng thời yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo áp dụng chặt chẽ chuẩn chương trình đào tạo đối với lĩnh vực pháp luật ở bậc đại học là hết sức cần thiết. Điều này không chỉ giúp các cơ sở giáo dục đại học nâng cao chất lượng đào tạo mà còn tạo ra cơ chế sàng lọc, những đơn vị không đáp ứng chuẩn chất lượng sẽ buộc phải dừng tuyển sinh.

Việc không mở tuyển sinh tràn lan ngành luật tại các trường đại học đa ngành là hợp lý, nhưng khác với ngành y, ngành luật vẫn được nhiều nước tiên tiến cho phép đào tạo bằng các mô hình đa dạng nếu đạt chuẩn chất lượng. Ví dụ, có thể kể đến hàng loạt trường đại học đa ngành có khoa luật nổi tiếng, lâu đời và uy tín trên thế giới như: Đại học Harvard, Yale, Stanford, New York (Mỹ); Đại học Melbourne (Úc); Đại học Tokyo (Nhật);…

Có thể thấy, ngành luật đặc thù vì đào tạo ra những chức danh đặc biệt, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ hay bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách sâu sắc thì người tốt nghiệp cử nhân luật vẫn cần trải qua quá trình bồi dưỡng chuyên sâu và rèn luyện nghiệp vụ trước khi có thể đảm nhiệm các chức danh có tính chất đặc biệt. Nói cách khác, người học sau khi tốt nghiệp cử nhân luật không nghiễm nhiên trở thành luật sư, thẩm phán, kiểm sát viên, công chứng viên hay các chức danh tư pháp khác, mà tất cả đều phải trải qua thêm quy trình đào tạo, tập sự và bổ nhiệm khác nhau.

Chẳng hạn, để trở thành thẩm phán, một cử nhân luật còn phải đáp ứng 5 tiêu chuẩn được quy định tại Điều 94 và đạt đủ các điều kiện được nêu tại Điều 95 Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân 2024 (sửa đổi). Trong đó, có hai yêu cầu bắt buộc là có thời gian làm công tác pháp luật từ đủ 5 năm trở lên, có năng lực xét xử, giải quyết những vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án theo quy định của pháp luật; và đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn thẩm phán của Tòa án Nhân dân.

486641937-686986543895543-3368971060039426221-n.jpg
Ảnh minh họa: Trường Đại học Thủy Lợi.

Các chức danh tư pháp khác cũng phải trải qua những quy trình bổ nhiệm nghiêm ngặt nên cần có sự cạnh tranh công bằng giữa các ứng viên sở hữu tấm bằng cử nhân luật từ các trường khác nhau.

Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng cử nhân luật hiện nay đang rất lớn, đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng được cả về chất lượng lẫn số lượng đào tạo. Người tốt nghiệp ngành luật có thể làm nhân viên pháp lý hoặc thư ký lãnh đạo tại doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, các tổ chức trong và ngoài nước; đảm nhiệm vị trí chuyên viên pháp lý, thư ký nghiệp vụ, trợ lý trong các công ty luật, tổ chức hoạt động bổ trợ pháp luật, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân, sở, phòng ban các cấp; hoặc phóng viên chuyên mảng pháp luật, làm công tác nghiên cứu trong các viện nghiên cứu, chuyên viên trong các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp nói riêng và các cơ quan nhà nước khác nói chung.

Do nhu cầu nhân lực pháp lý ngày càng lớn, việc siết chặt đào tạo cử nhân luật cần được thực hiện theo hướng vừa đáp ứng đủ nguồn cung, vừa đảm bảo chất lượng đào tạo. Một giải pháp trọng tâm là xây dựng và áp dụng thống nhất bộ tiêu chuẩn chất lượng dành cho tất cả các cơ sở đào tạo, trong đó yêu cầu về đội ngũ giảng viên, hệ thống thực hành, thực tập, mạng lưới hợp tác với tòa án, sở ngành, doanh nghiệp để người học được tiếp cận môi trường nghề nghiệp thực tế. Đối với các trường đào tạo đa ngành, các đơn vị này vẫn có thể giảng dạy các chuyên ngành luật phù hợp với điều kiện đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn kiểm định nghiêm ngặt, bảo đảm chương trình đào tạo đạt yêu cầu theo quy định.

Tại tọa đàm “Đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay: Thách thức và cơ hội” do Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức ngày 10/12 vừa qua, các chuyên gia, nhà quản lý đến từ các cơ sở đào tạo đã cùng bàn thảo thẳng thắn về những vấn đề hạn chế, thách thức trong công tác đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay.

Thạc sĩ Trần Cao Thành - Thư ký Ban điều hành Mạng lưới các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam cho biết, nhiều sinh viên ngành luật dù có thành tích học tập tốt nhưng khi đi làm lại không thể soạn được những văn bản và hợp đồng cơ bản. Đây là một thực trạng “đáng báo động”. Đồng tình với ý kiến trên, Tiến sĩ Nguyễn Gia Viễn - Kiểm sát viên cao cấp, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cảnh báo: “Hầu hết sinh viên hiện nay đến kỹ năng cơ bản nhất là soạn thảo văn bản theo đúng chuẩn cũng không làm được” [1]

Tài liệu tham khảo:

[1] https://tienphong.vn/nhieu-sinh-vien-luat-ra-truong-khong-soan-duoc-hop-dong-post1803384.tpo

Diệu Dương