Ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong ngư nghiệp để đảm bảo sinh kế bền vững cho ngư dân

16/12/2025 10:49
Diệu Dương

GDVN - Thay đổi phương thức khai thác thủy, hải sản góp phần bảo đảm sinh kế, ổn định an sinh xã hội, chuỗi cung ứng phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản và khai thác hải sản đang từng bước trở thành hướng đi hiệu quả, mở ra cơ hội nâng cao năng suất cho ngư dân và gia tăng giá trị cho ngành thủy sản. So với phương thức sản xuất truyền thống, các mô hình ứng dụng công nghệ không chỉ giúp tiết kiệm chi phí, đa dạng hóa đối tượng và phương thức nuôi, mà còn tạo ra sản phẩm thủy, hải sản sạch, đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong nước và xuất khẩu, qua đó góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.

Theo đó, bên cạnh việc mở rộng đối tượng thụ hưởng và triển khai đồng bộ các chính sách an sinh xã hội như tổng kinh phí thực hiện các dự án, hoạt động thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) tính riêng trong năm 2024 đạt hơn 12 tỷ đồng; địa phương đã xây dựng các chính sách hỗ trợ mang tính đột phá, chú trọng tạo sinh kế lâu dài cho hộ nghèo, cận nghèo.

Trên cơ sở đó, địa bàn đã triển khai nhiều giải pháp thiết thực nhằm giúp người dân không chỉ thoát nghèo mà còn ổn định cuộc sống, tránh tái nghèo, trong đó đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến khích bà con ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản và khai thác hải sản sáng tạo, hiệu quả đã được hình thành và nhân rộng, góp phần giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm sức lao động, tăng giá trị sản lượng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Giải pháp giảm áp lực chi phí đầu vào cho ngư dân

Sinh ra và lớn lên tại vùng quê miền biển, thấu hiểu những nhọc nhằn, vất vả của đời sống ngư dân qua từng chuyến ra khơi, anh Trần Thái Sơn và anh Nguyễn Văn Hòa đã sớm nung nấu khát vọng góp phần thay đổi nghề cá quê hương. Xuất phát từ gia đình có truyền thống bám biển, chứng kiến cha mẹ và bà con ngư dân phải làm việc vất vả trong điều kiện lao động khắc nghiệt, hai anh luôn trăn trở làm thế nào để nghề cá Việt Nam phát triển bền vững hơn, để ngư dân bớt nhọc nhằn và yên tâm vươn khơi bám biển.

Chia sẻ về vấn đề này, anh Trần Thái Sơn (sinh năm 1986), hiện là Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hiệp lực Phát triển Việt cho biết: Trong thực tế đánh bắt xa bờ, một trong những nỗi lo lớn nhất của ngư dân là tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt. Đây cũng chính là bài toán thôi thúc anh tìm hướng nghiên cứu, chế tạo thiết bị có thể biến nước biển thành nước ngọt, phục vụ trực tiếp cho tàu cá hoạt động dài ngày trên biển.

Ngay từ khi còn là sinh viên, anh Thái Sơn đã tự mày mò nghiên cứu công nghệ lọc nước biển thành nước ngọt. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu trong nước thời điểm đó còn hạn chế, những thử nghiệm ban đầu chưa mang lại kết quả như mong muốn. Năm 2012, khi giành được học bổng học thạc sĩ tại Đức, anh Sơn xác định đây là cơ hội quý báu để tiếp cận hệ thống phòng thí nghiệm tiên tiến, đồng thời nhận được sự hướng dẫn chuyên sâu từ các giáo sư, phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.

img-7244.jpg
Ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản và khai thác hải sản giúp giảm chi phí sản xuất, tiết kiệm sức lao động, tăng giá trị sản lượng và nâng cao thu nhập cho ngư dân. Ảnh: T.N.

Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Đức, anh Sơn vừa học, vừa làm thêm để tự trang trải cuộc sống và tích lũy kinh phí phục vụ nghiên cứu. Từ chính số tiền làm thêm ấy, anh mua vật liệu, thiết kế và chế tạo thành công chiếc máy lọc nước biển thành nước ngọt đầu tiên, với công suất 50 lít/giờ. Năm 2013, trở về Việt Nam với “tài sản” lớn nhất là chiếc máy lọc nước biển thành nước ngọt, anh Sơn đã đăng ký dự án sản xuất thử nghiệm cấp Bộ Khoa học và Công nghệ, tiến tới thành lập công ty năm 2014 cùng người bạn học Nguyễn Văn Hòa để có thể sản xuất đại trà loại máy này cung cấp cho ngư dân.

Nhận thấy công suất 50 lít/giờ chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của tàu cá đánh bắt xa bờ, hai kỹ sư tiếp tục nghiên cứu, cải tiến và cho ra đời các dòng máy có công suất 100 lít/giờ, rồi 200 lít/giờ. Sản phẩm nhanh chóng được ngư dân đón nhận không chỉ tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ), mà còn tại nhiều địa phương ven biển trên cả nước, kể cả các vùng đảo xa xôi. Chỉ sau 3 năm đưa sản phẩm ra thị trường, công ty đã nhận được đơn đặt hàng từ hơn 200 tàu đánh bắt xa bờ và 14 Nhà giàn DK1.

Đặc biệt, doanh nghiệp đã lắp đặt 15 máy lọc nước biển thành nước ngọt tại các Nhà giàn DK1 và 23 máy tại các điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa, sử dụng pin năng lượng mặt trời, trong đó có những máy đạt công suất 200 lít/giờ, chi phí bảo trì thấp, phù hợp với điều kiện của ngư dân. Từ nhu cầu thực tế của thị trường, nhất là các tàu dịch vụ hậu cần nghề cá và những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề bởi hạn mặn ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đơn vị tiếp tục nhận được nhiều đơn hàng yêu cầu công suất lớn gấp nhiều lần.

Không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống trên biển, việc sử dụng máy lọc nước biển thành nước ngọt còn giúp giảm đáng kể lượng rác thải nhựa từ các chai nước sinh hoạt, qua đó góp phần bảo vệ môi trường biển. Công ty không ngừng nghiên cứu, phát triển các hệ thống lọc nước công suất lớn, từ vài trăm lít đến 5.000 lít/giờ, hoàn toàn do Việt Nam nghiên cứu, thiết kế và chế tạo. Đáng chú ý, càng về sau, giá thành sản phẩm càng được tối ưu, phù hợp hơn với khả năng đầu tư của ngư dân.

anh.png
Anh Trần Thái Sơn - Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hiệp lực Phát triển Việt.

Không dừng lại ở bài toán nước ngọt, từ thực tiễn sản xuất trên biển, anh Trần Thái Sơn và anh Nguyễn Văn Hòa tiếp tục nhận diện một khó khăn lớn khác của ngư dân, đó là chi phí nhiên liệu. Với đặc thù đánh bắt xa bờ kéo dài nhiều tháng, mỗi chuyến biển có thể tiêu thụ tới 50.000 lít dầu diesel. Trong điều kiện lưu trữ lâu ngày trên biển, nhiên liệu dễ bị lẫn nước, muối và xảy ra các phản ứng hóa học làm giảm chất lượng, ảnh hưởng đến hiệu suất vận hành của động cơ, gây lãng phí nhiên liệu.

Từ đó, đơn vị đã nghiên cứu, thiết kế và chế tạo thiết bị xử lý, lọc dầu diesel cho động cơ tàu cá, giúp máy móc vận hành ổn định hơn, giảm tiêu hao nhiên liệu từ 10-15%. Thực tế cho thấy, khi lắp đặt thiết bị này, mỗi chuyến biển, ngư dân có thể tiết kiệm hơn 1.000 lít dầu, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Đến nay, thiết bị đã được lắp đặt trên nhiều tàu cá tại Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Cà Mau, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai (sau sáp nhập),...

Trong bối cảnh giá xăng dầu biến động, chi phí đầu vào tăng cao khiến nhiều tàu cá buộc phải nằm bờ, giải pháp tiết kiệm nhiên liệu không chỉ giúp giảm áp lực chi phí cho ngư dân, mà còn góp phần duy trì hoạt động khai thác thủy sản, bảo đảm sinh kế, ổn định an sinh xã hội và chuỗi cung ứng thủy sản phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hơn nữa, việc duy trì sự hiện diện thường xuyên của tàu cá trên biển còn mang ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia - mỗi con tàu là một “cột mốc sống” giữa biển khơi.

Tạo ra chuỗi dữ liệu minh bạch góp phần phát triển nghề cá bền vững

Song song với đó, hiện nay, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hiệp lực Phát triển Việt còn tham gia chuyển đổi số trong hoạt động ngư nghiệp. Với phương châm “hợp lực phát triển nghề cá”, doanh nghiệp đã nghiên cứu và phát triển ứng dụng Nhật ký khai thác điện tử Soba, giúp bà con ghi lại sản lượng và hành trình đánh bắt nhanh hơn, chính xác hơn, thay thế hoàn toàn cách ghi tay trước đây.

Theo anh Nguyễn Trung Thành (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hiệp lực Phát triển Việt), trước đây, việc ghi chép thủ công không chỉ mất thời gian mà còn gây khó khăn trong truy xuất thông tin các chuyến biển cũ. Khi dữ liệu được số hóa, việc kiểm tra, xác minh trở nên nhanh chóng, minh bạch hơn, góp phần phục vụ hiệu quả công tác quản lý nghề cá và thực hiện các quy định quốc tế về chống khai thác IUU.

img-7246.png
Anh Nguyễn Trung Thành (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hiệp lực Phát triển Việt). Ảnh: T.N.

Ngoài ra, các dữ liệu này còn được gửi về hệ thống hỗ trợ cơ quan quản lý và các cảng cá để theo dõi sản lượng bốc dỡ, xác định vị trí khai thác của từng chuyến biển, từ đó truy xuất nguồn gốc một cách dễ dàng, thuận tiện hơn. Trong bối cảnh ngành thủy sản đang nỗ lực thực hiện các khuyến nghị chống khai thác IUU, nhật ký khai thác điện tử được xem là bước tiến quan trọng. Toàn bộ thông tin về tọa độ, thời gian, sản lượng và loại hải sản được cập nhật, lưu trữ trên hệ thống, hỗ trợ cảng cá và cơ quan quản lý trong truy xuất nguồn gốc.

Việc áp dụng nhật ký khai thác điện tử không chỉ giúp ngư dân giảm bớt gánh nặng thủ tục, mà còn tạo ra chuỗi dữ liệu minh bạch từ biển vào bờ, đặt nền tảng cho quản lý nghề cá hiện đại, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ngành thủy hải sản Việt Nam trong thời gian tới.

Nhật ký khai thác điện tử Soba giúp ngư dân ghi lại sản lượng và hành trình đánh bắt, góp phần phục vụ hiệu quả công tác quản lý nghề cá và thực hiện các quy định quốc tế về chống khai thác IUU. Ảnh: T.N.

Nhật ký khai thác điện tử Soba giúp ngư dân ghi lại sản lượng và hành trình đánh bắt, góp phần phục vụ hiệu quả công tác quản lý nghề cá và thực hiện các quy định quốc tế về chống khai thác IUU. Ảnh: T.N.

Thay đổi tư duy phát triển kinh tế thủy, hải sản theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững trở thành yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Việc chuyển từ phương thức khai thác, nuôi trồng truyền thống sang tổ chức sản xuất gắn với ứng dụng khoa học công nghệ không chỉ góp phần nâng cao giá trị cho các sản phẩm thủy, hải sản địa phương, mà còn cải thiện năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, qua đó gia tăng thu nhập cho người dân vùng ven biển.

Khi chuỗi giá trị thủy, hải sản được tổ chức bài bản, hiệu quả, người dân không chỉ có việc làm ổn định, mà còn từng bước hình thành tư duy sản xuất hàng hóa, giảm phụ thuộc vào khai thác tự phát, góp phần giảm nghèo bền vững và hạn chế tình trạng thất nghiệp ở khu vực ven biển.

Diệu Dương