Ngoại giao nhân dân cho bài toán Biển Đông

01/06/2011 06:28
Chủ quyền trên khu vực Biển Đông là một cuộc đấu tranh lâu dài trên nhiều mặt trận. Ngoại giao nhà nước kết hợp với ngoại giao nhân dân tạo nên sức mạnh.

Chủ quyền trên khu vực Biển Đông là một cuộc đấu tranh lâu dài trên nhiều mặt trận. Theo tác giả, ngoại giao nhân dân kết hợp với ngoại giao nhà nước tạo nên sức mạnh tổng hợp.

{iarelatednews articleid='3614,3595,3555,3577,3510,3471,3419,3422,3366'}
 

Tàu cá xa bờ huyện đảo Lý Sơn(Quảng Ngãi) mang theo lá cờ tổ quốc trong lúc hành nghề trên biển Đông góp phần khẳng định chủ quyền lãnh hải. Ảnh: M.Đ
Tàu cá xa bờ huyện đảo Lý Sơn(Quảng Ngãi) mang theo lá cờ tổ quốc
trong lúc hành nghề trên biển Đông góp phần khẳng định chủ quyền
lãnh hải. Ảnh: M.Đ


Hiện nay, cơ chế “sức mạnh cứng” thông qua so sánh khả năng quân sự, tiềm lực hải quân hay cân bằng lực lượng đang chiếm ưu thế trong các cuộc tranh luận. Ngoại giao phòng ngừa hay ngoại giao liên kết – phát triển rất nhanh trong thời gian gần đây – cũng thường nhấn mạnh tính “vĩ mô” của tác nhân nhà nước trong vai trò giải quyết. Với quan điểm cho rằng, chủ quyền trên khu vực Biển Đông là một cuộc đấu tranh lâu dài trên nhiều mặt trận mà mỗi cấu trúc cần mỗi hình thức nguồn lực khác nhau, quan điểm về ngoại giao nhân dân hứa hẹn mở thêm những tiếp cận chính sách bổ sung.

Từ quốc tế hoá

Đầu tiên hãy bàn về xu hướng “quốc tế hoá”. Bên cạnh việc đưa vấn đề ra thế giới chủ yếu thông qua các biện pháp cân bằng chiến lược và ngoại giao, quốc tế hoá về mặt học thuật đang là lãnh vực đóng vai trò tiên yếu. Khẳng định này dựa trên hai lý do.

Một mặt, tranh luận trước tiên phải dựa vào lý lẽ, lý lẽ bắt nguồn từ một khuôn khổ nghiên cứu và dữ liệu có hệ thống. Trong quan hệ quốc tế, một sức mạnh thường được các học giả nêu ra như một vũ khí, đó là tính “hợp lý hơn” của lập luận. Một lập luận có tính hợp lý hơn không những tạo sự chính đáng cho các quan điểm, mà còn là một tiền đề quan trọng góp phần xây dựng kiến thức chung về vấn đề tranh cãi (‘‘common knowledge”).

Từ tranh chấp lãnh hải, đàm phán biến đổi khí hậu đến quản trị thị trường tài chính quốc tế – các chủ đề chính trị quốc tế ngày càng trở nên phức tạp. Trên bàn đàm phán, điểm đầu tiên của mọi câu chuyện là phải làm sao định nghĩa lại những khái niệm cần giải quyết. Vì thế, trước khi trình bày hay bảo vệ lợi ích riêng, việc chuyển hoá quan điểm hay cách tiếp cận của mình thành kiến thức chung được đông đảo chấp nhận sẽ là một lợi thế lớn.

Thí dụ điển hình là tranh luận về đổi tên từ “Biển Nam Trung Hoa” thành “Biển Đông Nam Á”. Rõ ràng, đây không phải chỉ là vấn đề cái tên, mà là một khẳng định về danh từ chung đang và sẽ được dùng trong việc xác định một khu vực đang tranh chấp. Tên gọi nội hàm sự chính danh, yếu tố không lan toả sức mạnh, nhưng là cầu nối dẫn đến tính hợp pháp của sức mạnh.

Nếu ngoại giao nhân dân đã từng là lưỡi liềm đỏ trong chiến tranh Việt Nam, thì ở thế kỷ 21, nó cũng là một tiếng vọng lương tri quy lòng người về một mối. Hiện nay, một trong những vấn đề cấp thiết của bài toán Biển Đông đang nằm ở việc làm sao phải mổ xẻ tiếp những điểm còn khúc mắc, tìm ra được cái “hợp lý hơn” của lý lẽ.

Đến dân sự hoá

Bên cạnh đó, nếu “học thuật hoá” từ bên ngoài mang lại lý lẽ trên mặt trận thương thuyết, thì từ bên trong, nó là nguồn khơi của những đồng thuận. Gần đây công tác tuyên truyền biển đảo được đánh giá như một bước đi cần thiết để mang các đề tài phức tạp trở thành đơn giản đến quần chúng số đông. Tuyên truyền, tuy vậy, chỉ giới hạn ở mức độ phát động từ trên xuống, và cần tiếp lực bằng những hỗ trợ theo chiều rộng từ các sáng kiến từ dưới lên. Vì thế, “học thuật hoá” đi trước, “dân sự hoá” cần phải tiếp bước theo sau.
 

Trả lời trưởng thông tín viên châu Á tờ Hoa Nam nhật báo khi ông này đến đảo Lý Sơn hồi cuối tháng 5, ngư dân Mai Phụng Lưu (ảnh), thuyền trưởng tàu cá ở Lý Sơn, người bị tàu Trung Quốc bắt bốn lần trong năm năm qua khi ông đánh bắt cá ở Hoàng Sa, cho biết: “Đấy là vùng biển Việt Nam, ông nội tôi đánh cá ở đấy, cha tôi đánh cá ở đấy và tôi đánh cá ở đấy. Đó là lịch sử của chúng tôi và chủ quyền của chúng tôi”. Ảnh: Minh Đức
Trả lời trưởng thông tín viên châu
Á tờ Hoa Nam nhật báo khi ông
này đến đảo Lý Sơn hồi cuối tháng
5, ngư dân Mai Phụng Lưu (ảnh),
thuyền trưởng tàu cá ở Lý Sơn,
người bị tàu Trung Quốc bắt bốn
lần trong năm năm qua khi ông
đánh bắt cá ở Hoàng Sa, cho biết
: “Đấy là vùng biển Việt Nam,
ông nội tôi đánh cá ở đấy, cha
tôi đánh cá ở đấy và tôi đánh cá
ở đấy. Đó là lịch sử của chúng tôi
và chủ quyền của chúng tôi”.

Bài học lịch sử tại đàm phán Paris 1973 nhấn mạnh tính “nhân dân” đóng vai trò rất quan trọng trong thắng lợi ngoại giao chung, như trưởng đoàn chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình khẳng định: “Đặc điểm lớn nhất của ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Ngoại giao nhà nước có chiến lược chiến thuật rất tốt nhưng đối ngoại nhân dân cũng là vũ khí khá sắc bén để chúng ta tranh thủ sự ủng hộ của thế giới đối với cuộc kháng chiến”.

Qua nhận định trên có thể thấy, nếu ngoại giao nhân dân đã từng là lưỡi liềm đỏ trong chiến tranh Việt Nam, thì ở thế kỷ 21, nó cũng là một tiếng vọng lương tri quy lòng người về một mối. Hiện nay, một trong những vấn đề cấp thiết của bài toán Biển Đông đang nằm ở việc làm sao phải mổ xẻ tiếp những điểm còn khúc mắc, tìm ra được cái “hợp lý hơn” của lý lẽ. Điều này không chỉ là nhiệm vụ của nhà hoạch định chính sách, học giả mà còn là trách nhiệm của mỗi người con đất Việt.

Từ gia đình chài lưới ở Lý Sơn với công hàm còn lưu của chúa Nguyễn, đến người chiến sĩ đang đứng gác tuổi xuân ở vọng đảo Trường Sa.

Từ em học sinh thắp đèn cặm cụi “Thư cho hải đảo”, đến bà mẹ thầm lặng ầu ơ con bằng ca dao lịch sử nước nhà. Đặc biệt, khi câu chuyện càng phức tạp, càng nhạy cảm thì sức hậu thuẫn của toàn dân tộc nhịp theo từng bước chính sách mới càng mang giá trị.

Xin khép lại bài viết bằng hai nhận xét. Thứ nhất, sẽ ảo tưởng, nếu nghĩ rằng chỉ bằng những câu chuyện hấp dẫn sẽ giải quyết hết mọi xung đột vũ trang. Cũng sẽ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng, lan toả từ những cá nhân, lý lẽ và lập luận ví như chiếc đũa thần biến mọi khác biệt trở nên đồng thuận. Nhưng nếu đồng ý rằng chính trị quốc tế như một ván bài, thì việc các nhà đại diện quốc gia cần làm là tích luỹ cho mình nhiều quân bài chiến lược nhất có thể.

Trên mặt trận thương thuyết, hiểu và sử dụng đúng lúc những nguồn lực “vi mô” này sẽ là chìa khoá đầu tiên mở ra cánh cửa “vĩ mô” . Thứ hai, đi tìm một giải pháp hiện tại vừa cần cái nhìn phía trước, vừa cần tìm lại “túi khôn” thể hiện trong lịch sử dân tộc.

Như lời trối “Thả sức cho dân” của Hưng Đạo Vương với vua Trần Anh Tông khi lâm chung, câu thơ “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân“ trong Cáo Bình Ngô của anh hùng Nguyễn Trãi, hay căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời: “Nếu xa rời nhân dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được. Dựa chắc vào dân thì không kẻ địch nào tiêu diệt được ta”. Đó là gì, nếu không phải xây dựng nội lực từ nhân dân, dựa vào quần chúng để tạo dựng cơ đồ? Nay chúng ta chỉ bước tiếp con đường mà ông cha đã đi…

Theo Nguyễn Chính Tâm/SGTT