Thống kê của Sở TN-MT cho thấy hiện TP.HCM có hơn 200.000 giếng khoan với tổng công suất khai thác trên 1 triệu m3/ngày đêm, gấp 5 lần so với quy hoạch được Thủ tướng phê duyệt.
Trong khi đó, theo TS Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, năm 1999, toàn TP mới có khoảng 95.828 giếng khai thác nước ngầm, mật độ trung bình 46 giếng/km2. Ông nhận định, chỉ hơn 10 năm, TP đã có thêm hơn 100.000 giếng, chứng tỏ tình trạng lạm dụng khai thác nước ngầm đã đến mức báo động. Hậu quả là mực nước ngầm bị hạ thấp nhanh chóng, làm tăng tình trạng sụt lún ở nhiều nơi.
|
Không quản lý được
Ông Phạm Mạnh Đức, Giám đốc Công ty cổ phần cấp nước Chợ Lớn, cho biết: “Rất nhiều khách hàng hiện nay tuy đã gắn đồng hồ nước nhưng không sử dụng nước máy mà vẫn chủ yếu sử dụng nước ngầm. Chẳng hạn khu vực P.Bình Hưng Hòa, Q.Bình Tân, mặc dù gần nghĩa trang và Sở Y tế đã cảnh báo nguồn nước ngầm bị ô nhiễm nhưng người dân vẫn không chịu sử dụng nước máy”.
Theo ông Đức, UBND TP đã có chủ trương khu vực nào có áp lực nước từ 0,13 (chiều cao cột nước từ 1 m trở lên) thì không cho phép sử dụng nước ngầm. Hằng năm, Sở TN-MT cũng yêu cầu đơn vị cấp nước cung cấp số liệu về áp lực nước từng khu vực. “Vậy mà, tình trạng khai thác nước ngầm vẫn không ngừng tăng. Không chỉ Q.8, Q.Bình Tân, mà hiện nay gần như toàn bộ H.Bình Chánh đang sử dụng nước ngầm”, ông Đức nói.
Theo Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco), hiện UBND các quận huyện, phường xã, thậm chí Sở TN-MT cũng không quản lý được tình trạng khoan và sử dụng giếng ngầm trên địa bàn. Con số giếng khoan trên thực tế có thể lớn hơn nhiều so với hơn 200.000 giếng mà TP công bố.
Mặt đất đang bị biến dạng
Kết quả nghiên cứu của dự án “Quan trắc biến dạng mặt đất khu vực TP.HCM bằng kỹ thuật Insar vi phân” do Trung tâm địa tin học (thuộc Khu công nghệ phần mềm Đại học Quốc gia TP) thực hiện cho thấy nhiều khu vực tại TP đang bị lún cục bộ, tốc độ trung bình 10 mm/năm. Nhiều khu vực ở 17 quận, huyện có tốc độ lún trên 10 mm/năm. Đặc biệt, những khu vực đô thị hóa nhanh thuộc các quận 2, 6, 7, 8, 9, 12, Tân Phú, Bình Thạnh, Thủ Đức và các huyện Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè có tốc độ lún trên 15 mm/năm. Điển hình như Q.6 (lún 5-20 cm/năm), Q.Bình Tân (14 cm/năm), thị trấn An Lạc - Q.Bình Tân (12 cm/năm).
Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng này là do đô thị hóa nhanh và khai thác nước ngầm quá mức. Khu vực phía nam TP đang trong tình trạng báo động về sụt lún. Sở TN-MT nhận định, mặt đất TP đang bị biến dạng mạnh do mực nước ở các tầng khai thác bị giảm, phát triển đô thị, địa chất yếu... Dự báo đến năm 2020, nhiều khu vực ở TP độ lún tăng 12 - 22 cm.
Luật gia Lê Hiếu Đằng, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ TP.HCM, cho rằng hiện tượng sụt lún đất gia tăng có trách nhiệm của UBND TP, Sở TN-MT. Bởi, ngoài vấn đề địa chất tự nhiên, còn do TP không kiểm soát được nạn khai thác giếng ngầm tràn lan, đặc biệt là giếng khoan công nghiệp; cho xây dựng hàng loạt khu đô thị, công trình nhà cao tầng tại những vùng có địa chất yếu; cấp phép xây dựng theo kiểu “nén chặt” các cao ốc thương mại, văn phòng khu vực trung tâm; không kiểm soát được nạn bơm hút cát bừa bãi trên các dòng sông để phục vụ các công trình xây dựng...
Tại hội thảo chống ngập hôm 7.3 vừa qua, PGS-TS Hồ Long Phi, Giám đốc Trung tâm quản lý nước và biến đổi khí hậu TP cũng cảnh báo, nhiều nơi ở TP đang lún với tốc độ mạnh: 1,5 - 2 cm/năm, có nơi 3 cm/năm (gấp 3 lần tốc độ dâng của mực nước biển). Tốc độ lún có thể sẽ gia tăng hơn nữa. Hậu quả sẽ khiến hệ thống thoát nước bị tê liệt, đê bao chống ngập do triều cường nếu không đánh giá kỹ tác động của lún mặt đất sẽ không phát huy tác dụng.
Phải có biện pháp mạnh
Theo TS Ngô Hoàng Văn, Phó chủ tịch Hội Nước và môi trường TP.HCM, từ năm 2006, UBND TP đã chủ trương khoanh vùng những khu vực hạn chế và cấm khai thác nước ngầm. Tuy nhiên, do chưa thực hiện quyết liệt nên tình trạng khai thác nước ngầm vẫn đang bị thả nổi. Ông đề nghị UBND TP, Sở TN-MT phải có biện pháp mạnh như tăng cường kiểm tra, xử phạt nhằm bảo vệ nguồn nước ngầm để giảm thiểu các tác động rất lớn đến địa chất, môi trường của TP.
TS Lê Văn Trung, Giám đốc Trung tâm địa tin học, cũng kiến nghị UBND TP cần khẩn trương có biện pháp cấm và hạn chế khai thác nước ngầm, lập bản đồ phân vùng cấm, xác định lại chuẩn cốt nền để phục vụ các công trình xây dựng trước thực trạng biến đổi khí hậu.
Một số thành phần trong nước vượt giới hạn cho phép Trung tâm quan trắc và dự báo tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên - Môi trường) vừa công bố kết quả quan trắc tài nguyên nước ngầm năm 2011. Theo đó, ở một số vùng khai thác nước mạnh tại đồng bằng Bắc bộ, mực nước giảm dần theo thời gian, cần chú ý điều chỉnh công suất khai thác. Tại một số điểm quan trắc ở Mai Dịch và Cầu Giấy (Hà Nội) mực nước đã hạ thấp sâu, gần tới mực nước hạ thấp cho phép. Về chất lượng nước tại đồng bằng Bắc bộ, kết quả này chỉ rõ, trong tầng chứa nước Holocen trên, có 13/36 mẫu giá trị tổng chất rắn hòa tan vượt quá hàm lượng tiêu chuẩn cho phép. 7/7 mẫu có hàm lượng các inon NH4+ cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Hàm lượng NH4+ trung bình tính theo Nitơ trên toàn bộ số mẫu vào mùa khô cao gấp 92,4 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng NH4+ đặc biệt lớn, cao gấp 233 lần so với tiêu chuẩn pho phép được phát hiện tại Tân Lập (Đan Phượng, Hà Nội). Tại tầng chứa nước Pleistocen dưới, vào mùa khô có 17/32 mẫu có hàm lượng mangan (Mn), 4/32 mẫu có hàm lượng asen (As) vượt tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng As cao nhất là 0,1500 mg/l (gấp 3 lần tiêu chuẩn cho phép) được phát hiện tại Hoài Đức (Hà Nội). Trong mùa mưa, có 12/30 mẫu có hàm lượng Mn, 4/30 mẫu có hàm lượng As vượt tiêu chuẩn cho phép. 18/18 mẫu có hàm lượng NH4+ cao hơn nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng NH4+ trung bình tính theo Nitơ của 18 mẫu lớn hơn tiêu chuẩn cho phép tới 92 lần vào mùa khô và 70 lần vào mùa mưa. Các mẫu có hàm lượng NH4+ cao trên 100 lần tiêu chuẩn cho phép được lấy từ Chuyên Ngoại (Duy Tiên, Hà Nam), Hà Đông và Hoài Đức (Hà Nội), TP.Phủ Lý (Hà Nam). Báo cáo cũng chỉ rõ, tại một số vùng khai thác nước mạnh thuộc đồng bằng Nam bộ, mực nước giảm dần theo thời gian. Tại một số điểm quan trắc, mực nước đã hạ thấp sâu, vào khoảng tiệm cận với mực nước hạ thấp cho phép, đặc biệt ở khu vực Q.12 và Q.Bình Tân (TP.HCM). Một số thành phần trong nước vượt giới hạn cho phép, thường là tổng chất rắn hòa tan, NH4+ tính theo nitơ và các thành phần vi lượng thường là Mn, As. Theo các nhà khoa học, những chỉ số nêu trên trong nước ngầm vượt quá giới hạn cho phép đều có những ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe của người sử dụng nước. |
Nguyễn Đình Mười - Quang Duẩn/Thanh niên