Suốt thời gian khá dài gan nhiễm mỡ được coi là bệnh của những người nghiện rượu. Cách đây không lâu các bác sĩ chẩn đoán, bệnh tấn công cả đối tượng uống rượu vừa phải, thậm chí cả ở những người không hề uống rượu.
Xin giới thiệu cuộc trao đổi thú vị với GS. BS Janusz Cianciara, giám đốc Bệnh viện Các bệnh về Gan, Ba Lan.
- Thưa giáo sư, gan nhiễm mỡ thực chất là bệnh gì?
Đó là tình trạng tích tụ quá nhiều các nguyên tố chất béo trong tế bào gan – hepatocyty. Tình trạng nhiễm mỡ mức độ cao có thể ảnh hưởng bất lợi đến chức năng gan. Không hiếm trường hợp gan nhiễm mỡ còn đi kèm với viêm gan. Giai đọan tiếp theo của tình trạng này là hiện tượng xơ hóa tế bào và hậu quả sau vài năm hoặc hơn chục năm có thể dẫn đễn xơ gan.
Bởi lẽ gan nhiễm mỡ được phát hiện ngày càng nhiều ở những người không hề lạm dụng rượu, gần đây người ta đã đưa vào khái niệm: gan nhiễm mỡ không rượu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chứng bệnh dạng này: thừa cân, nhất là béo phì, tiểu đường dạng 2, rối lọan trao đổi chất béo, lối sống lười vận động, lạm dụng tân dược và ma túy. Gan nhiễm mỡ cũng có thể xuất hiện trong bệnh viêm gan virus C.
- Ở vị trí hàng đầu nguyên nhân gan nhiễm mỡ, giáo sư nhắc đến béo phì. Liệu tất cả người béo phì đều bị kết án bệnh này?
10 thực phẩm tốt nhất cho phụ nữ mãn kinh
Theo số liệu thóng kê, tại Ba Lan, khoảng 60% đối tượng phát phì bị gan nhiễm mỡ. Tại Mỹ và Đức tình hình cũng không khá hơn. Nhìn chung đa số người béo phì sớm muộn cũng trở thành nạn nhân của chứng bệnh này.
Có nhiều nguyên nhân khiến người béo phì dễ bị bệnh tấn công. Trong đó có thực tế đối tượng này thường bị bệnh áp huyết cao, bệnh mạch vành, bệnh tiểu đường dạng 2, bệnh rối loạn chuyển hóa chất béo và cácbônác. Tất cả những chứng bệnh đã kể, kết hợp với gan nhiễm mỡ tạo thành hội chứng chuyển hóa. Nếu tình trạng gan nhiễm mỡ được phát hiện sớm, có thể ngăn ngừa sự xuất hiện của hội chứng chuyển hóa bằng các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Tuy nhiên không phải bao giờ cũng đạt được kết quả mong muốn, bởi gan nhiễm mỡ và hội chứng chuyển hóa thường mang tính di truyền ở mức độ lớn.
- Y học hiện đại lý giải thế nào về sự hình thành ghi chép “khuyết tật” di truyền?
Theo tôi, chúng ta được tạo hóa trang bị ghi chép di truyền đã tiên đoán lối sống và phương pháp dinh dưỡng khác. Tổ tiên loài người từng hoạt động chạy nhiều, săn bắt, chủ yếu ăn thịt, hiện nay chúng ta đi lại bằng các phương tiện cơ giới, ít hoạt động thể chất, tức đốt cháy ít năng lượng, tất nhiên về phương diện chuyển hóa.
Thêm nữa bộ phận đáng kể nhân loại dinh dưỡng không lành mạnh – hệ quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có sự dễ dàng tiếp cận thực phẩm và cách thức chế biến nhiều khi phi khoa học (thí dụ, đồ ăn nhanh). Hậu quả tiếp theo dẫn đến tình trạng rối loạn trao đổi chất, mà tình trạng béo phì và thừa cân là kết cục tất yếu. Đây là hiện tượng ngày càng phổ biến, liên quan đến cả trẻ em và thanh thiếu niên. Dẫu sự thật thỉnh thoảng gan nhiễm mỡ xuất hiện ở người gầy, song tỷ lệ rất thấp so với đồng loại béo mập.
- Bị gan nhiễm mỡ, nạn nhân có nhận thấy triệu chứng rõ ràng: đau gan, khó tiêu?
Gan không đau, bởi không có mạng thần kinh. Tuy nhiên nếu như vì bệnh nó phình to thái quá dung tích và lấn chiếm diện tích túi bọc bên ngoài, khi ấy sẽ có cảm giác chèn ép, khó chịu, đôi lúc quặn đau dưới mạng sườn, bên phải. Tuy nhiên chúng không rõ rệt và không phải lúc nào cũng là dấu hiệu khẳng định các bệnh về gan.
Những người bị gan nhiễm mỡ có thể cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh và không bị bất cứ trục trặc gì về tiêu hóa. Tất nhiên chỉ đến thời điểm, khi bắt đầu xuất hiện những tín hiệu đầu tiên khẳng định, gan đã “không thể tự xoay sở” với tình trạng nhiễm mỡ. Không hiếm trường hợp xuất hiện tình trạng suy nhược, mệt mỏi, mất ngủ và thậm chí trầm cảm ở những nạn nhân gan nhiễm mỡ hoặc hội chứng chuyển hóa. Những triệu chứng này thường tự biến mất sau thay đổi lối sống, không cần uống thuốc.
- Theo giáo sư, cần thực hiện những xét nghiệm chẩn đoán gì, trường hợp nghi ngờ, gan nhiễm mỡ?
Trước tiên là siêu âm vòm bụng. Trên màn hình, gan nhiễm mỡ có đặc điểm khác thường – nhìn như mầu trắng. Tiếp theo là những xét nghiệm quan trọng như kiểm tra nồng độ đường trong máu, nồng độ trigliceryd và cholesterol với các thành phần HDL và LDL và kiểm tra men gan.
Dạng điển hình của gan nhiễm mỡ và hội chứng chuyển hóa là nồng độ cholesterol chung có thể bình thường, trái lại nồng độ HDL (cholesterol có ích) lại quá thấp và nồng độ trigliceryd có thể quá cao. Men gan thường cao.
- Người không thuộc ngành y cho rằng, men gan cung cấp nhiều thông tin nhất về sức khỏe của cơ quan này. Sự thật thế nào, thưa giáo sư?
Men gan cao có thể không phải vì lý do bệnh lý của cơ quan này. Sau nỗ lực thể chất lớn, bệnh lý đường mật và túi mật… cũng có thể làm men gan tăng cao. Hiện tượng men gan cao dạng thứ hai thường mang tính nhất thời cũng quan sát được khi uống một số loại tân dược, thí dụ statyn. Những loại thuốc này phát huy hiệu quả trong điều trị các bệnh hệ tim-mạch và phòng chống bệnh xơ vữa thành mạch, song rất độc hại đối với gan. Trái lại bệnh viêm gan mạn tính do virus và gan nhiễm mỡ có thể tiến triển với trạng thái men gan bình thường. Vì thế chỉ riêng phép thử men gan chưa đủ, để đánh giác mức độ tổn thương gan.
Cần thiết những phân tích chính xác hơn – cần đánh giá chức năng gan dựa trên kết quả tổng hợp protein, chủ yếu các nhân tố kết dính và albumin. Chỉ một khi có kết quả tất cả những xét nghiệm đã kể, mới có thể kết luận về chức năng tổng thể của gan như một cơ quan của cơ thể.
- Có thể điều trị hiệu quả bệnh gan nhiễm mỡ?
Có thể ở mức độ đáng kể và việc chữa trị nhiều khi rất đơn giản – chỉ cần chuyển sang thực đơn hợp lý (nếu trước đó áp dụng chế độ dinh dưỡng không lành mạnh), vứt bỏ vài kilôgam dư thừa – với đối tượng thừa cân và quan tâm hoạt động thể chất thích đáng.
Sau thời gian nhất định thực hiện lối sống lành mạnh tình trạng gan nhiễm mỡ sẽ giảm thiểu, song thường không biết mất hoàn toàn. Tuy nhiên sở hữu 5% tổng số tế bào gan nhiễm mỡ vẫn khỏe hơn 80%.
Phát huy vai trò chống bệnh tích cực có các vitamin sở hữu tính năng chống oxy hóa như vitamin C và E, các fosfolipid. Những nguyên tố thứ hai sẵn có trong màng tế bào cơ thể. Một số tân dược (thí dụ Syliflex, Essentiale Forte, Esseliv…) giúp phục hồi và tái cấu trúc tế bào gan. Chúng là thực phẩm chức năng cần thiết đối với nạn nhân gan nhiễm mỡ.
- Giáo sư đánh giá thế nào về những tân dược khác được coi như lá chắn bảo vệ gan, cũng có nguồn gốc thực vật?
- Quan trọng nhất, tất cả phải qua khâu kiểm định và nghiên cứu nghiêm túc, thí dụ thuốc được sản xuất dựa trên nền ostropest plamitic, trong đó có Sylimarol đã được kiểm chứng, nếu sử dụng liều thích hợp và trong thời gian nhiều tháng. Hai loại thuốc Heparegen và Liv 52 cũng phát huy hiệu quả bảo vệ tế bào gan. Tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là dinh dưỡng thích hợp và chăm hoạt động thể dục thể thao.
- Theo giáo sư, những thành phần cơ bản nào trong thực đơn có lợi dành cho gan?
Quan trọng nhất là duy trì tỷ lệ thích hợp chất béo, chất đạm và chất bột-đường. Chất béo thực vật và từ cá biển cần chiếm tỷ trong cao hơn so với chất béo từ thịt và bơ. Chất bột và đường với số lượng hợp lý cũng là thành phần hữu ích của thực đơn. Những người béo phì hoặc thừa cân cần tránh ăn mật ong, mứt hoa quả và đường. Gan thích thực đơn cân bằng và phong phú. Cho dù không thể làm thay đổi bản chất di truyền, song bằng lối sống lành mạnh và thực đơn hợp lý, chúng ta có thể “sửa chữa” được 20-30% các rối loạn có nguồn gốc từ khiếm khuyết trao đổi chất.
Chỉ kiểm tra men gan chưa đủ, để đánh giá thực trạng chức năng gan. Cần phải thực hiện một số xét nghiệm khác theo chỉ định của bác sĩ. Thậm chí sử dụng những loại thuốc thông dụng phổ biến cũng có thể gây tác động tiêu cực đến chức năng gan.