Nơi ấy, con em học sinh của gần 440 hộ dân đều có sổ hộ nghèo này ngày ngày cần mẫn tìm cái chữ. Và ở đó, có những người giáo viên lặng lẽ hàng chục năm dâng tuổi xuân của mình nơi hoang vắng, bởi cái nghiệp cầm phấn đã gắn họ với lũ trò nghèo ở vùng cao.
Gian nan đường tìm con chữ
Trà Khê (Tây Trà, Quảng Ngãi) nằm lọt thỏm trong vùng rừng núi giáp với tỉnh Quảng Nam, từ lâu đã “chết danh” là “xã nghèo nhất nước”.
Đời sống kinh tế của người dân còn nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước, chăn nuôi và làm rẫy.
Xã có 435 hộ, với hơn một nghìn khẩu, nhưng hộ nào cũng nghèo. Số hộ nghèo trong xã chiếm tới hơn 95%, vì thế, học sinh nơi đây hầu hết đều thuộc con em hộ nghèo.
Trường Tiểu học Trà Khê với 5 điểm trường nằm tản mát ở khắp nơi trong xã, để thuận tiện cho học sinh nơi đây dễ đến lớp trong vòng một tiếng đồng hồ.
Nếu để các em từ trong làng ra điểm trường chính học, khi đường ô tô không có, thì chắc hẳn chẳng một em nào đến được trường hàng ngày.
Đường lên điểm trường thôn Sơn (Ảnh: Minh Ngọc – Vân Anh). |
Thầy Võ Phúc Huy, hiệu phó trường tiểu học ngậm ngùi: “Trà Khê là xã khó khăn nhất tỉnh Quảng ngãi, giao thông chưa có nên việc học tập của con em đồng bào nơi đây rất gian nan.
Tại đây có 5 điểm trường nằm sâu trong núi rừng. Đời sống giáo viên cũng gặp rất nhiều khó khăn, nhưng vì lòng yêu nghề và thương trẻ nên ai cũng cố gắng trụ lại.
Để có được ngôi trường như hiện nay, các thầy cô giáo đã phải cùng người dân cõng từng viên gạch, từng bao xi măng, từng tấm ván gỗ về xây trường.
Những ngày đầu, học sinh đi học không nhiều, không đều như bây giờ, thầy cô giáo phải thay nhau đến từng gia đình động viên các em.
Mỗi năm gần đến lễ khai giảng, giáo viên trong trường lại tỏa đi vận động các em tới lớp. Vì có nhiều em nghỉ học là không đến trường nữa. Có cô giáo sợ các em bỏ học, lúc đến vận động nhắc nhở các em là ở luôn lại làng, rồi đưa các em đi luôn!
Cả trường gần 300 học sinh, nhưng chỉ có khoảng 100 em học ở điểm trường chính, còn lại các em học ở các điểm lẻ. Vì cái chữ cho đồng bào, chúng tôi đã phải cố gắng rất nhiều”.
Điểm trường thôn Sơn, nơi khó khăn nhất xã Trà Khê. (Ảnh: Minh Ngọc – Vân Anh). |
Tôi theo thầy Võ Phúc Huy, hiệu phó trường tiểu học này đến thôn Sơn, nơi thuộc diện nghèo nhất xã. Chúng tôi vào trường, sau giây phút ngỡ ngàng vì lâu lắm mới thấy ...người dưới xuôi lên đây, các giáo viên trong trường ùa ra người thì đỡ ba lô, người vỗ vai, người xách nước cho chúng tôi rửa mặt thân mật như người nhà.
Chúng tôi nhìn vào trong lớp học, trời mùa đông vùng núi cao mà có em áo mặc chưa đủ ấm, có em quần áo lấm lem bùn đất vì phải vượt cả một quãng đường xa để tới lớp trong mùa mưa này. Ngồi trong lớp học mà các em cứ co ro vì cái lạnh của vùng cao thấy mà thương quá.
Anh Huy thủ thỉ: “Học sinh của trường từ nhỏ đã phải băng rừng lội suối đi học, đã quen nên không biết mệt nhưng vất vả lắm. Bất kể mưa nắng, đi từ nhà đến trường trung bình ít nhất phải mất hơn 1 giờ đồng hồ lội suối băng rừng nên phải dậy thật sớm.
Thấy vậy nên nhà trường cũng linh động để sắp xếp thời gian biểu hợp lý hơn. Được cái học sinh ở đây ham học lắm, ít khi bỏ học. Đấy cũng là niềm an ủi với những giáo viên đứng lớp nơi đây...”.
Các em học sinh ở điểm trường chính tại trung tâm (Ảnh: Minh Ngọc – Vân Anh). |
Có lên đến đây, có dạy cái chữ cho học sinh vùng cao mới thấy yêu thương và gắn bó với mảnh đất này.
Theo quy định, thì những giáo viên cắm bản sẽ được luân chuyển theo chế độ và thời gian công tác. Những thầy cô giáo công tác ở đây từ 5 năm trở lên sẽ được chuyển vùng, chuyển về dưới xuôi với điều kiện tốt hơn nhiều, nhưng:
“Cái đất, cái tình người ở đây cứ quện lấy mình rồi. Đi thì nhớ lắm! Có thầy cô giáo ban đầu định bỏ nghề rồi vì không chịu đựng nổi với những khó khăn này, nhưng về dưới xuôi mấy bữa lại thấy khăn gói lên lại. Họ bảo rằng nhớ rừng, nhớ đất, nhớ người trên này quá không chịu nổi.
Người dân ở đây vốn chân chất thật thà. Sống với họ mới hiểu được cái tình người cao quý đến nhường nào!”, một cô giáo đã đứng tuổi chia sẻ.
Những con người dân tuổi xuân nơi hoang vắng
Giáo viên ở xã nghèo Trà Khê cũng vô vàn nhọc nhằn. Nhà công vụ là những phòng tạm vách lồ ô, nếu tường xây gạch thì cũng đầy loang lổ, có thể sập bất cứ lúc nào.
Điểm trường thôn Sơn nghèo nhất xã này có 3 thầy và 2 cô giáo. Cả 5 giáo viên ở chung một căn phòng ọp ẹp rộng chưa tới 15m2.
Chỗ nghỉ giữa thầy và cô được ngăn bởi tấm rido bằng vải. Nhiều đêm cũng ngủ giật mình thức dậy vì lỡ “gác tay” sang bên kia.
Một góc nơi sinh hoạt của các thầy cô giáo ở thôn Sơn. (Ảnh: Minh Ngọc – Vân Anh). |
“Ban đầu lên đây, giữa núi rừng heo hút, tôi buồn lắm! Có lần về dưới xuôi định không lên nữa, nhưng rồi lại thấy nhớ những đôi mắt đợi trông của học trò, thương người dân còn nhiều cực nhọc, tôi lại khăn gói lặn lội lên đây.
Nhìn những gương mặt mong mỏi đợi trông của các em khi thấy mình trở lại mà thương trào nước mắt các anh ạ!”, thầy giáo Nguyễn Công Trí, quê miền biển nói mà đôi mắt rưng rưng.
Bữa cơm đạm bạc miền núi thấm đẫm hơi sương được dọn ra. Bếp lửa bên cạnh luôn đỏ rực để át đi cái lạnh của vùng cao.
Cô giáo trẻ vừa xới cơm, vừa cười rất tươi kể, sau giờ lên lớp hầu hết các giáo viên đều ra suối bắt cá, hái ra trên rừng. Một tháng hai lần có tiếp tế từ dưới xuôi lên thì có chất tươi. Còn lại thì chỉ có gạo, cá khô, mắm muối.
Tôi nhìn bữa cơm trưa hôm ấy có một ít rau xanh với mấy con cá khô. Thấy cô giáo trẻ thật thà như thế, chúng tôi ái ngại.
Nhiều lúc muốn ăn một miếng cá biển tươi, nhưng lên được đến đây thì cá đã ươn mất rồi, nhiều khi còn hư thối nữa.
Sống trên núi, có khi nửa năm hoặc cả năm trời mới biết đến mùi cá biển, miếng thịt heo, thịt bò. Đợt vừa rồi mùa mưa lũ chia cắt, nhiều lúc hết gạo, cá, họ cùng ăn sắn, ăn khoai với người dân trong làng.
Thông tin liên lạc, một nhu cầu thực tế mà thời nay ai cũng cần. Nhưng ở vùng núi này xem là chuyện hiếm hoi.
Mỗi lần có ai đó xuống được dưới xuôi, trong ba lô bao giờ cũng là lặc lè những báo, sách, tạp chí đủ loại. Anh em có được tờ báo đọc, nhịn ăn nhịn uống đọc nát mới thôi, và lại chờ báo “mới” của chuyến sau.
Mỗi buổi tối đến, hai cô giáo ngồi tán chuyện với nhau, nói về manh áo rách, nói về đồ ăn thức uống trong mùa mưa này, nói về những chuyện riêng vốn rất thầm kín của phụ nữ. Còn ba người đàn ông thì túm tụm lại nhậu, rồi đi ngủ, bởi không biết làm gì nữa.
Câu chuyện trong mỗi cuộc nhậu vẫn là những chủ đề về trường lớp, hay mơ màng hơn là ao ước về một mái nhà nhỏ có chồng có vợ và những đứa con quây quần bên mâm cơm mỗi tối, là đón đưa con cái đi học, là chiều cuối tuần được đi công viên…
Và thể nào cũng cứ tới giữa chừng câu chuyện, thì lại có người nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ vợ, nhớ con, nhớ ruộng đồng bờ bãi dưới miền xuôi. Rồi cứ thế từng người một lần lượt lặng lẽ đứng dậy, ra cái chỗ cao ở cuối dãy hành lang nhà mà nhìn mênh mông về phía đông cho đỡ nhớ.
Đêm trên vùng sơn cước, cái lạnh và cái buồn cứ bủa vây trong cơn mưa rừng rả rích. Một thầy giáo trẻ cất lên giai điệu bolero buồn buồn từ chiếc guitar thùng đã tróc hết lớp verni bên ngoài.
Anh hát những bản tình ca về quê hương, về cùng đất anh đã lớn lên, về cả miền núi rừng nơi anh đang sống và công tác.
Tôi hiểu. Những con người nơi đây phải gắng gượng lắm để vượt qua được hết nỗi buồn, sự thiếu thốn và cả những mong ước rất giản dị của mình.
Bởi nếu không có được sự dũng cảm, có lẽ chẳng còn ai có thể trụ nổi được đến tận bây giờ. Tất cả họ, và tất cả những người đang dâng hiến tuổi xuân của mình nơi hoang vắng trên dải đất hình chữ S này đều xứng đáng được vinh danh.
Chúng tôi xuống núi, cái buồn gieo lãng đãng như sương núi mọng li ti trên mắt, trên môi từng người. Cả trường ra tiễn chúng tôi, bịn rịn và quyến luyến, bởi biết đến bao giờ lại được gặp người dưới xuôi...