Phần 1 (Vấn nạn văn mẫu có phải do "buông lỏng quản lý việc dạy Ngữ văn"?)
Những giải pháp cơ học và mang tính “hớt ngọn”
Có thể nói, vì không đi sâu vào bản chất sâu xa để lý giải căn nguyên gốc rễ của nạn văn mẫu nên có thể thấy, 5 giải pháp mà Giáo sư Trần Đình Sử để ra trong bài viết “Giải pháp chấn chỉnh tệ nạn “dạy văn mẫu” trong nhà trường phổ thông hiện nay” thực ra chỉ là những giải pháp thuần túy cơ học và mang tính “hớt ngọn”.
Có thể tóm tắt 5 giải pháp mà Giáo sư Trần Đình Sử đề xuất trong bài viết trên của ông như sau:
Một là, tuyên truyền, phát động phong trào thi đua chống văn mẫu trong toàn ngành giáo dục;
Hai là, lấy chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018 làm cơ sở và “pháp lệnh”;
Ba là, đề nghị giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung chương trình môn Ngữ văn;
Bốn là, thay đổi tận gốc phương pháp dạy văn trong nhà trường;
Năm là, thay đổi cách ra đề thi môn Ngữ văn.
Phải nói rằng, chúng tôi khá bất ngờ về những giải pháp chống văn mẫu mà Giáo sư Trần Đình Sử đã nêu ra.
Trong mối quan hệ với mục tiêu và quan niệm của việc dạy học ngữ văn trong nhà trường, chúng tôi cho rằng, trong 5 giải pháp mà Giáo sư Trần Đình Sử đề xuất chỉ 2 giải pháp sau là có cơ sở khoa học dù chưa phải căn cơ và toàn diện.
Còn lại, những giải pháp đầu, theo chúng tôi là khá chủ quan và nhất là chỉ thuần túy là những giải pháp cơ học, mang tính “hớt ngọn”.
Cho dù sắp tới đây ngành giáo dục có làm theo tất cả những đề xuất này của ông, tôi nghĩ cũng khó mà đẩy lùi vấn nạn văn mẫu.
(Ảnh chỉ mang tính minh họa: Báo Giáo dục và Thời đại) |
Thiếu cơ sở khoa học vững chắc
Thật lòng, chúng tôi không nghĩ ngành giáo dục lại phải phát động “phong trào thi đua chống văn mẫu” theo như đề xuất của Giáo sư Trần Đình Sử. Chúng tôi cũng rất hoài nghi và không thấy có một cơ sở khoa học nào để Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng:
“Cơ sở để khắc phục tệ nạn dạy văn mẫu là chương trình giáo dục ngữ văn phổ thông đã công bố năm 2018. Đó là chương trình tuy còn có ít nhiều hạn chế mặt này, mặt khác, song thực sự đó là chương trình giáo dục chống văn mẫu, nâng cao năng lực ngữ văn cho học sinh các cấp. Theo đúng chương trình này thì mọi “sách mẫu” chẳng bao lâu sẽ trở thành rác rưởi hết. Bộ Giáo dục và Đào tạo phải lãnh đạo toàn ngành thực hiện chương trình này như một pháp lệnh”. [1]
Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018, đương nhiên là “pháp lệnh” vì đã được Bộ trưởng phê duyệt rồi nên không cần đến Giáo sư Trần Đình Sử phải “lưu ý” với Bộ Giáo dục và đào tạo hay bất cứ ai.
Xin thưa với Thầy Sử, chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn trước hết là cơ sở pháp lý để ngành giáo dục triển khai thực hiện mục tiêu chung của đề án “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục” nước nhà hiện nay.
Dẫu vậy, thật lòng chúng tôi không biết dựa trên cơ sở khoa học nào để Giáo sư Trần Đình Sử xác quyết đây là “chương trình giáo dục chống văn mẫu” hay nếu “theo đúng chương trình này thì mọi “sách mẫu” chẳng bao lâu sẽ trở thành rác rưởi hết”?
“Nhà em có nuôi… một ông ngoại”. Câu văn mẫu rập khuôn, lâu nay đã trở thành chuyện cười này cho chúng ta thấy, chuyện chống văn mẫu là vấn đề không đơn giản nếu chúng ta không thật sự quan tâm đến mục tiêu chung của nền giáo dục và mục tiêu cụ thể của việc dạy học môn văn trong nhà trường qua từng cấp học. Nếu không xác định rõ và rốt ráo vấn đề này thì mọi giải pháp khác chỉ là “hớt ngọn” mà thôi.
Thế nên, về phương diện nhận thức, tôi xin phép dẫn lại đây quan điểm của Tiến sĩ Giáp Văn Dương về mục tiêu chung của giáo dục đó là, chúng ta muốn tạo ra những “con người tự do” hay “con con người công cụ” để xây dựng và phát triển quốc gia, dân tộc trong tương lai? [2].
Hay nói khác đi, trong giáo dục anh muốn tạo ra một đứa trẻ như nó vốn là, đang là hay nên là theo ý muốn của anh?
Chúng tôi cho rằng, chương trình giáo dục môn Ngữ văn năm 2018 về cơ bản cũng vẫn là sự lặp lại cái khuôn mẫu của chương trình trước đây cả về nhận thức lẫn mục tiêu đào tạo con người.
Trong bài viết của mình, Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng muốn chống văn mẫu thì người giáo viên phải thay đổi tận gốc phương pháp dạy học môn văn.
Ông đề nghị phải chú trọng đến việc dạy cho học sinh “đọc hiểu văn bản”, tránh lối dạy giảng văn “nhá chữ”…Tôi đồng ý. Tuy nhiên, vấn đề là, có nhiều cách để “đọc hiểu” văn bản.
Các thầy cô giáo có chấp nhận “cách đọc, hiểu” tác phẩm văn học của học trò khác với mình không? Theo tôi, đây mới là vấn đề quan trọng, đáng bàn.
Giáo sư Trần Đình Sử hướng dẫn giáo viên “đọc hiểu” văn bản “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu dựa trên nền tảng lý thuyết về thi pháp học, người khác lại đứng ở phương diện xã hội học hay phân tâm học… để “đọc, hiểu” chắc chắn sẽ cho ra những kết quả tiếp nhận khác nhau.
Thực tế dạy học cũng cho thấy, có không ít giáo viên ngoài miệng thì khuyến khích học sinh suy nghĩa khác với mình, đặt câu hỏi và phản biện lại mình nhưng trong thâm tâm lại rất bảo thủ, khi học sinh trao đổi lại, trình bày cách hiểu khác thì tỏ vẻ khó chịu, không hài lòng. Thậm chí không ít người còn cho rằng hỏi giáo viên như thế là “hỗn”, là “trả treo”…
Điều này đã vô tình gây nên sự ức chế và sợ hãi cho học sinh. Hệ quả là các em dù không đồng tình quan điểm của thầy cô nhưng khi làm bài lại không dám nói khác. Lại tiếp tục nói theo ý của thầy cô để an toàn, an tâm về điểm số.
Như vậy, chống văn mẫu ở đây không chỉ thuần túy chỉ thay đổi phương pháp dạy học văn một cách cơ học là bỏ lối giảng văn “nhá chữ” chuyển sang đọc hiểu văn bản… như Giáo sư Trần Đình Sử đề xuất mà quan trọng hơn là thay đổi tận gốc quan niệm và nhất là cái “định kiến” của người giáo viên trong mối quan hệ với học sinh trong suốt quá trình dạy học.
Hay nói khác đi, giáo viên cần tôn trọng và chấp nhận suy nghĩ riêng của học sinh để cùng các em tìm một giải pháp hài hòa, khả dĩ nhất trong việc đọc hiểu văn bản.
Vấn đề này, hiểu rộng ra, lại liên quan đến việc tổ chức không gian học tập – vấn đề thực hành “dân chủ trong trường học”.
Dân chủ trong trường học để các thầy cô giáo không áp đặt suy nghĩ của mình lên học trò; để học trò không sợ hãi thầy cô khi khi trình bày suy nghĩ bản thân; và để hoạt động dạy học trong nhà trường thật sự “lấy học sinh làm trung tâm”.
Nhưng muốn có sự dân chủ giữa thầy cô giáo với các em học sinh thì cần có sự dân chủ giữa lãnh đạo ngành giáo dục, lãnh đạo nhà trường với các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp.
Một khi thầy cô giáo cảm thấy sợ hãi những người lãnh đạo và cấp trên mình thì đến lượt họ, họ sẽ làm cho học sinh sợ hãi.
Mà sợ hãi tất yếu sẽ đưa đến sự tuân phục vô điều kiện; sự máy móc và rập khuôn; đồng nghĩa với triệt tiêu tư duy độc lập và sáng tạo của mỗi cá nhân.
Cuối cùng, theo logic thông thường, khi đã chỉ ra nguyên nhân của vấn nạn văn mẫu từ việc buông lỏng quản lý thị trường sách văn mẫu – hệ quả của căn bệnh ngụy thành tích trong giáo dục thì khi đề xuất giải pháp phải bám vào cái thực trạng này.
Vậy nên, muốn chống nạn văn mẫu, thiết nghĩ ngành giáo dục không nên tuyên truyền và phát phát động phong trào thi đua chống văn mẫu như kiến nghị của Giáo sư Trần Đình Sử mà thay vào đó là chống căn bệnh thành tích trong giáo dục hiện nay; đồng thời chấn chỉnh dạy học chi nhằm mục đích phục vụ cho các kỳ thi.
Thay đổi tư duy và nhận thức về mục tiêu của giáo dục và loại trừ căn “bệnh ngụy thành tích”
Ngôn ngữ là nhận thức, là tư duy. Văn mẫu không đơn giản chỉ là chuyện học sinh khi làm bài kiểm tra sao chép lại nguyên văn lời dạy của thầy cô dạy trên lớp hay trong sách văn mẫu bán trên thị trường. Hiểu văn mẫu như thế không sai nhưng không toàn diện. Hơn nữa, nếu chỉ như thế cũng không đáng lo, đáng sợ bằng sự “đồng phục” rập khuôn trong nhận thức và tư duy.
Lẽ thường, vì không có suy nghĩ gì mới nên người ta buộc lòng phải sao chép và bắt chước người khác. Hay dù có suy nghĩ mới nhưng vì sợ hãi và không tự tin vào bản thân mình nên người ta cũng không dám nói ra suy nghĩ thật của mình.
Và thế là để an toàn cho bản thân, người ta buộc phải lặp đi lặp lại những điều người khác đã nói dù biết sáo rỗng hoặc thậm chí là sai lầm.
Nói tóm lại, về phương diện nhận thức, muốn chống văn mẫu điều quan trọng nhất là cần xem lại mục tiêu chung của nền giáo dục và những mục tiêu cụ thể liên quan đến quan niệm về dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay như thế nào.
Vì mục tiêu của nền giáo dục như thế nào sẽ tạo ra con người như thế ấy. Liên quan đến vấn đề này, triết gia J. Krishnamurti (1895-1986) trong “Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống” có nói rằng:
“Giáo dục đúng nghĩa của nó là giúp cá thể trưởng thành và tự do phát triển trọn vẹn trong tình yêu và tình người. Đấy là điều ta nên quan tâm chứ không tìm cách định hình đứa trẻ theo một khuôn mẫu lý tưởng nào (…)
Khi người thầy mong muốn hiện thực hóa chính mình nơi học trò, khi sự thành công của chúng là thành công của anh ta thì việc giảng dạy là một hình thức tiếp nối bản thân mình, lối giảng dạy ấy có hại cho việc nhận biết chính mình và cho tự do.
Nhà giáo dục chân chính phải ý thức về tất cả những trở ngại này để giúp học trò thoát khỏi không chỉ uy quyền của anh ta mà còn những dạng thức theo đuổi khiến cho các em tự vây bọc mình lại”. [3]
Về phương diện giải pháp “kỹ thuật”: Để chống nạn văn mẫu, ngành giáo dục cần kiến quyết chống “bệnh ngụy thành tích” đặc biệt là sự hơn thua, ganh đua nhau về thành tích dạy và học ở các địa phương; giữa các trường học trên cả nước hiện nay thông qua số liệu thống kê về tỷ lệ học sinh đạt thành tích cao ở các kỳ thi.
Cuối cùng, cần kiểm soát chặt chẽ việc xuất bản các bộ sách “ăn theo” chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn nhằm phục vụ và đối phó với các kỳ thi của học sinh để kiếm thành tích.
Đặc biệt, đã đến lúc cần nghiêm cấm những người vừa là tham gia vào việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa nói chung nhưng đồng thời lại chủ trương biên soạn các loại sách mẫu nấp dưới danh nghĩa sách tham khảo hay sách “hệ thống kiến thức môn văn” cho học sinh ở tất cả các cấp học.
Thay lời kết
Muốn trị bệnh điều quan trọng là phải chẩn đoán được đúng bệnh, đặc biệt là nguyên nhân gây bệnh.
Quan điểm của Giáo sư Trần Đình Sử về nguyên nhân của vấn nạn văn mẫu tuy không sai nhưng theo chúng tôi và vẫn chưa chạm tới những vấn đề mang tính gốc rễ.
Vì thế, những giải pháp mà ông đưa ra không lấy gì đảm bảo sẽ đẩy lùi vấn nạn này. Đặc biệt là giải pháp chỉ thuần túy cơ học như “phát động phong trào thi đua chống văn mẫu”.
Chống văn mẫu theo cách này có khi vừa mất thời gian vừa tạo thêm áp lực hành chính cho đội ngũ các thầy cô giáo ở phổ thông nhưng không chắc sẽ mang lại hiệu quả.
Tài liệu tham khảo:
[1]: Trần Đình Sử - “Giải pháp chấn chỉnh tệ nạn “dạy văn mẫu” trong nhà trường phổ thông hiện nay”. https://vanvn.vn/giai-phap-chan-chinh-te-nan-day-van-mau-trong-nha-truong-pho-thong-hien-nay/
[2]: Giáp Văn Dương – “Con người tự do hay con người công cụ?” https://tuoitre.vn/con-nguoi-tu-do-hay-con-nguoi-cong-cu-575369.htm
[3]: J Krishnamurti – “Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống” (Đinh Hồng Phúc dịch). Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.