Dù Luật Giáo dục đại học có quy định: “Khuyến khích cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tiếp nhận, tạo điều kiện để người học và giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo”, nhưng trên thực tế, có nhiều lý do khiến doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí e ngại tham gia hợp tác cùng các cơ sở giáo dục đại học.
Nhiều giải pháp thu hút doanh nghiệp hợp tác đào tạo
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Thu Giang, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long chia sẻ: “Trường Đại học Hạ Long luôn chú trọng hợp tác, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức trong công tác triển khai đào tạo.
Các hoạt động này bao gồm việc tổ chức cho sinh viên thực hành, thực tập, làm khóa luận tốt nghiệp và tham gia nghiên cứu khoa học, qua đó giúp sinh viên tiếp cận thực tế và nâng cao chất lượng đào tạo.
Để đảm bảo triển khai hiệu quả các hoạt động, nhà trường thực hiện đồng bộ và liên tục nhiều giải pháp. Một trong những giải pháp quan trọng là xây dựng chương trình đào tạo với sự tham gia của doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng lao động. Nhà trường cũng tham khảo chuẩn đầu vào từ các cơ quan tuyển dụng và tăng cường thời lượng thực hành, thực tập.
Bên cạnh đó, trường cũng xây dựng các quy định và quy chế nội bộ liên quan đến thực hành, thực tập và khóa luận tốt nghiệp, làm cơ sở để lựa chọn và hợp tác với các cơ sở thực tập. Mặt khác, nhà trường còn chủ động liên hệ, giới thiệu chương trình đào tạo tới các cơ quan, doanh nghiệp, đồng thời giới thiệu sinh viên đến thực tập và kết nối sinh viên tốt nghiệp với các doanh nghiệp tuyển dụng.
Ngoài ra, nhà trường khuyến khích các khoa và giảng viên tham gia các hiệp hội, tổ chức, đồng thời tư vấn chuyên môn cho các cơ quan, doanh nghiệp. Điều này giúp giảng viên trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp và sinh viên.
Phòng Công tác chính trị, Quản lý và Hỗ trợ sinh viên hỗ trợ sinh viên trong việc liên hệ, giới thiệu đến thực tập tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động, đồng thời thu thập thông tin từ các cơ quan, doanh nghiệp phục vụ cho tiểu luận, đề tài nghiên cứu và khóa luận tốt nghiệp”.

Theo cô Giang, kết quả đạt được rất đáng khích lệ: 100% sinh viên của trường được giới thiệu và thành lập các đoàn thực tập tại các cơ sở thực tập uy tín trong và ngoài nước. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm luôn duy trì trên 80%, chứng tỏ hiệu quả trong công tác chuẩn bị cho sinh viên bước vào thị trường lao động.
Nhiều sinh viên thực hiện các khóa luận tốt nghiệp chất lượng, gắn liền với thực tế lao động và sản xuất của các cơ quan, doanh nghiệp. Đồng thời, các đề tài nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên nhận được sự tài trợ và chuyển giao từ các cơ quan, doanh nghiệp. Đây là những kết quả bước đầu giúp nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Cùng bàn luận về chủ đề này, Tiến sĩ Phan Thị Hồng Phúc, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên cho hay, trong những năm qua, trường đã cử nhiều đoàn cán bộ, giảng viên, sinh viên đến tham quan, thực tập, kiến tập tại các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Mặt khác, nhà trường còn tổ chức các chương trình, đối thoại với doanh nghiệp và cựu sinh viên để trao đổi, chia sẻ lắng nghe ý kiến đóng góp từ các cựu sinh viên là doanh nhân, quản lý các cơ quan nhà nước liên quan đến lĩnh vực ngành nghề hoặc quản lý của các doanh nghiệp về nhu cầu thị trường và yêu cầu về năng lực của người làm việc trong các ngành nghề.
Thêm vào đó, hầu hết các học phần thực tập nghề nghiệp, ngoài việc có sự tham gia giảng dạy của giảng viên của nhà trường thì còn có các nhà quản lý có học vị cao của các doanh nghiệp cùng lên lớp cung cấp thông tin cho người học.

Cô Phúc bày tỏ: “Ngoài hỗ trợ mô hình, trang thiết bị dạy học, hàng năm các công ty trao học bổng hàng tỷ đồng cho sinh viên có thành tích học tập tốt, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học tập, sinh viên khởi nghiệp, đặc biệt là quỹ học bổng cho sinh viên vay để trang trải học tập không tính lãi, đến khi sinh viên ra trường đi làm trả lại cho quỹ tiếp tục hỗ trợ cho các bạn khoá sau, nguồn ngân sách chính của quỹ do Hanvet tài trợ.
Do đặc thù vùng miền số sinh viên theo học tại trường thuộc diện chính sách có hoàn cảnh khó khăn, ở vùng sâu, vùng xa chiếm tỷ lệ khá cao (30%), vì vậy sự giúp đỡ kịp thời của doanh nghiệp là hết sức ý nghĩa giúp các sinh viên hoàn thành ước mơ học đại học”.
Còn Tiến sĩ Quách Hoài Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nha Trang nhấn mạnh, hợp tác với doanh nghiệp luôn là ưu tiên hàng đầu của nhà trường trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng và đi vào chiều sâu trong thời gian qua.
Đặc biệt, vai trò của doanh nghiệp thể hiện rõ rệt thông qua việc tham gia sâu vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, cung cấp cơ sở vật chất, điều kiện thực hành, thực tập, việc làm và cung cấp thông tin định hướng đào tạo, nghiên cứu cho nhà trường.
“Từ năm 2020 đến nay, Trường Đại học Nha Trang đã ký kết hơn 100 thỏa thuận hợp tác (MoU) với nhiều công ty, doanh nghiệp, kết nối hợp tác với hơn 200 doanh nghiệp. Những hợp tác này là nguồn lực quan trọng giúp nhà trường tổ chức các ngày hội việc làm, tạo cơ hội cho sinh viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp.
Trường Đại học Nha Trang có một số chính sách và sáng kiến “riêng biệt” giúp nâng cao mối quan hệ với doanh nghiệp, trở thành điểm mạnh của trường. Cụ thể, trong Ban chủ nhiệm chương trình đào tạo của các ngành, có từ một đến ba thành viên là đại diện từ các doanh nghiệp liên quan đến ngành học.
Mỗi khóa sinh viên mới đều được tổ chức kiến tập tại các doanh nghiệp thông qua học phần “Nhập môn ngành”. Nhà trường còn có chính sách hợp tác với doanh nghiệp với các định hướng rõ ràng về đào tạo, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng”.

Theo thầy Nam, Trường Đại học Nha Trang là đơn vị tiên phong và là một trong số ít các trường đại học trên cả nước có hợp tác đào tạo với doanh nghiệp.
Trường đã ký kết hợp tác với Tập đoàn Thủy sản Minh Phú để triển khai hai chương trình đào tạo đặt hàng về Công nghệ chế biến thủy sản và Nuôi trồng thủy sản trong vòng 5 năm với tổng kinh phí 50 tỷ đồng.
Nhận thấy hiệu quả, Tập đoàn Thủy sản Minh Phú tiếp tục đặt hàng thêm hai chương trình mới cho năm học 2024-2025 về Công nghệ sinh học và Cơ khí thủy sản thông minh. Trường cũng hợp tác với Tập đoàn Hải Vương để đào tạo Công nghệ chế biến thủy sản với kinh phí 3 tỷ đồng. Sinh viên tham gia các chương trình này được tài trợ toàn bộ học phí, ký túc xá miễn phí và đảm bảo việc làm sau tốt nghiệp.
Ngoài ra, nhà trường còn nhận được sự tài trợ thiết bị thực hành từ các doanh nghiệp như Tập đoàn Nam Long (10 tỷ đồng), Công ty Hải Đăng (1 tỷ đồng)...
Quy trình, thủ tục rắc rối khiến doanh nghiệp gặp khó
Thầy Nam chia sẻ, mặc dù hoạt động hợp tác giữa doanh nghiệp và Trường Đại học Nha Trang đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, vẫn còn tồn tại một số trở ngại khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình hợp tác đào tạo và chuyển giao công nghệ với nhà trường.
Về phía doanh nghiệp, do mục tiêu chính của họ là tối đa hóa lợi nhuận, trong khi mục tiêu của nhà trường là đào tạo và nghiên cứu khoa học, nên giữa hai bên vẫn tồn tại những khác biệt trong quá trình hợp tác. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp còn gặp hạn chế về nguồn lực tài chính và nhân lực, dẫn đến việc chưa thể đầu tư nhiều vào các hoạt động hợp tác với trường đại học.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng lo ngại về vấn đề bảo mật thông tin và cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học và thương mại hóa sản phẩm. Trong khi đó, quy trình và thủ tục hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp đôi khi còn phức tạp, gây khó khăn cho cả hai bên.
Ở góc độ khác, về phía nhà trường, chương trình đào tạo vẫn chưa thực sự bám sát nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp, khiến sinh viên sau khi tốt nghiệp vẫn cần thời gian đào tạo lại để có thể làm việc hiệu quả. Bên cạnh đó, năng lực nghiên cứu khoa học của một số giảng viên còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long chỉ ra thực tế: “Hiện nay nhà trường chỉ có 2 trung tâm dịch vụ có tài khoản và con dấu riêng. Việc thành lập doanh nghiệp trực thuộc nhà trường còn chưa thực hiện được, nên việc hợp tác đầy đủ giữa các doanh nghiệp với nhà trường còn một số hạn chế.
Vì nhà trường là đơn vị hành chính sự nghiệp, chịu nhiều quy định ràng buộc đối với đơn vị sự nghiệp công lập, còn doanh nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường.
Bên cạnh đó, một số quy định trong tổ chức đào tạo cũng khó cho doanh nghiệp muốn tham gia sâu vào quá trình đào tạo. Chẳng hạn, có nhiều chuyên gia ở các doanh nghiệp, cơ quan dù rất giàu kinh nghiệm thực tế nhưng không đủ điều kiện là giảng viên để tham gia thỉnh giảng, giảng dạy cho trường đại học.
Theo chúng tôi, nên có những quy định cụ thể hơn cho các cơ sở đào tạo được phép cho sinh viên học một số học phần thực hành, kĩ năng tại các doanh nghiệp đủ yêu cầu, hoặc cho phép các cơ sở đào tạo mời doanh nhân, nghệ nhân chưa đủ điều kiện về văn bằng, chứng chỉ được tham gia giảng dạy một số nội dung trong một học phần (có thể không dạy đủ một học phần). Những “giảng viên” này sẽ mang đến các case study hết sức giá trị cho sinh viên tiếp cận”.
Tiến sĩ Phan Thị Hồng Phúc cho hay, các doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại khi hợp tác với nhà trường do tính ổn định không cao, quy mô nhỏ và hạn chế về tầm nhìn dài hạn.
Nhiều doanh nghiệp chỉ tập trung vào lợi ích trước mắt, chưa có kế hoạch rõ ràng về nhu cầu nhân lực và thường xem nhiệm vụ đào tạo là trách nhiệm của nhà trường. Một số doanh nghiệp cũng yêu cầu ứng viên có kinh nghiệm thực tiễn, gây khó khăn cho sinh viên mới tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, cơ chế và chính sách chưa hoàn thiện cũng là rào cản lớn. Hoạt động hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp đã được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên, thực tế triển khai hợp tác lại gặp khó khăn vì sự chồng chéo giữa các Luật (Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công…), trong khi chưa có những Nghị định quy định rõ ràng cách áp dụng những luật này cho các cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện tự chủ trong ký kết hợp tác.
Thị trường lao động chưa phát triển đồng đều, số việc làm do doanh nghiệp tạo ra thường nhỏ hơn so với lượng nhân lực được đào tạo. Điều này khiến doanh nghiệp ít quan tâm đến việc hợp tác với nhà trường.
Trong khi một số ngành như nông nghiệp có sự thiếu hụt nhân lực, dẫn đến doanh nghiệp chú trọng hơn đến hợp tác, thì phần lớn các trường chưa có bộ phận chuyên trách về kết nối với doanh nghiệp, dẫn đến hiệu quả hợp tác chưa cao.
Dù các trường đã mời doanh nghiệp tham gia xây dựng và chỉnh sửa chương trình đào tạo, nhưng hoạt động này chưa thực sự thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp. Việc duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác cũng gặp khó khăn do thiếu các điều kiện cần thiết, nguồn kinh phí eo hẹp, chưa có cơ chế rõ ràng để khuyến khích hợp tác hiệu quả.
Trước tình hình thực tế, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nha Trang đề xuất, để khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào lĩnh vực giáo dục đại học, cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ toàn diện và thiết thực.
Cơ quan có thẩm quyền cần xem xét các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản đầu tư khi hợp tác với trường đại học. Cụ thể, ưu đãi có thể áp dụng đối với kinh phí tài trợ cho các chương trình nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đặt hàng đào tạo, chi phí đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, học bổng dành cho sinh viên, cũng như các hoạt động đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc phục vụ công tác đào tạo và nghiên cứu.
Bên cạnh đó, cần rút ngắn thời gian và đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường, đặc biệt trong các hoạt động cho - nhận, chia sẻ trang thiết bị phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của cả hai bên.
Ngoài ra, nhà trường cũng cần có cơ chế, chính sách phù hợp để ghi nhận và tạo điều kiện cho sự hỗ trợ của doanh nghiệp, đặc biệt trong các hoạt động thực hành, thực tập, cũng như sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị của doanh nghiệp trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.

Cô Phúc cho hay, chính sách giáo dục đại học cần tiếp tục được hoàn thiện và giám sát thông qua hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học (HEMIS), đồng thời phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động (LMIS) và hệ thống tra cứu sinh viên tốt nghiệp.
Việc gắn kết các hệ thống này cần được thực hiện dưới sự quản lý và điều phối của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm tạo sự đồng bộ và hiệu quả trong quản lý. Ngoài ra, cần xây dựng và ban hành các văn bản nhằm nâng cao năng lực quản trị của các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp, đặc biệt chú trọng đến mô hình quan hệ đối tác công tư (PPP) trong giáo dục đại học.
Việc thúc đẩy hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp cần đi đôi với việc tăng quyền tự chủ cho các trường đại học, hoàn thiện cơ chế tự chủ đối với các trường công lập để nâng cao chất lượng đào tạo.
Đồng thời, cần quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực, hỗ trợ các trường đại học trong công tác đào tạo, cũng như thường xuyên thống kê cung - cầu nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao trong các ngành nghề để đảm bảo sự điều tiết hợp lý của lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Bên cạnh đó, việc triển khai Khung trình độ quốc gia cần được đẩy mạnh, kết hợp với quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và hoàn thiện các quy định về cơ chế tổ chức, hoạt động của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học trong bối cảnh phát triển mới.