Không kiểm định CTĐT định kỳ, trường ĐH lo ngại đối với chương trình liên kết quốc tế

05/08/2025 09:22
Ngọc Tường

GDVN - Theo chuyên gia, chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực nào cũng có đặc thù riêng và cần được kiểm định chất lượng định kỳ.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), trong đó có đề xuất điều chỉnh quy định liên quan đến hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo.

Cụ thể, Khoản 1, Điều 38, Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định:

"1. Đối tượng phải thực hiện kiểm định định kỳ bao gồm:

a) Các cơ sở giáo dục đại học;

b) Các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật; đối với các chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành, lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.”.

Với nội dung dự thảo trên, có thể thấy chỉ có ba nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe và pháp luật là bắt buộc thực hiện kiểm định định kỳ. Còn các nhóm ngành/lĩnh vực khác sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định. Sự thay đổi này đang thu hút sự quan tâm của cơ sở giáo dục đại học và chuyên gia.

Ưu tiên kiểm định định kỳ để đảm bảo chuẩn chất lượng

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Trung Cang – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiên Giang bày tỏ, trong 6 nhóm chính sách đề xuất sửa đổi trong dự thảo Luật lần này, vấn đề liên quan đến kiểm định chương trình đại học cũng được điều chỉnh theo hướng tiếp cận mới. Theo đó, trừ một số chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe và pháp luật, thì chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành/lĩnh vực còn lại có thể sẽ không thực hiện kiểm định định kỳ.

sv-dh-kien-giang.png
Nguồn ảnh minh họa: website Trường Đại học Kiên Giang

Vấn đề đặt ra là, nếu dự luật mới nới lỏng quy định kiểm định, thì cơ chế hậu kiểm đối với các ngành và chương trình đào tạo được các trường đại học tự chủ mở thời gian qua sẽ quản lý chất lượng như thế nào?

Nếu như không kiểm định chất lượng giáo dục đối với các chương trình đào tạo sẽ khó quản lý được chất lượng giảng dạy sinh viên, nhất là các trường tốp dưới trong bối cảnh mở nhiều ngành mới để đạt chỉ tiêu tuyển sinh. Có thể mỗi ngành tối thiểu nên có 1 chương trình đào tạo phải được đánh giá ngoài hoặc kéo dài hiệu lực kiểm định để có một trụ cột neo vào chất lượng.

Nếu giao các trường đại học tự đánh giá chương trình đào tạo thì Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có cơ chế quản lý chất lượng chương trình đào tạo cho các trường từ khâu triển khai chương trình đào tạo, tự đánh giá chương trình đào tạo và cải tiến chương trình đào tạo.

Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Huy Tuân – Phó Trưởng phòng phụ trách Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh nhận định rằng, việc chỉ bắt buộc kiểm định định kỳ đối với ba nhóm ngành nói trên cho thấy sự nới lỏng từ phía Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm giảm tải thủ tục và nguồn lực cho các trường đại học.

Tuy nhiên theo thầy Tuân, việc kiểm định chất lượng giáo dục lần đầu tiên đối với các chương trình đào tạo là cần thiết để chuẩn hóa và ổn định chất lượng. Sau đó, khi các trường đã có kinh nghiệm và khả năng tự kiểm soát nội bộ.

sv-sp-kt-tp-hcm-8610.jpg
Nguồn ảnh minh họa: website Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

Đối với các chương trình đào tạo liên kết quốc tế, theo quy định hiện hành, vẫn bắt buộc phải kiểm định chất lượng giáo dục. Đây cũng là nhóm chương trình cần đặc biệt ưu tiên kiểm định định kỳ để đảm bảo chuẩn chất lượng xuyên quốc gia.

Thầy Tuân chia sẻ thêm, tại nhà trường, những chương trình liên kết quốc tế thường được phía trường đối tác kiểm soát chất lượng rất nghiêm ngặt với quy trình nội bộ chặt chẽ, định kỳ kiểm tra hàng năm như một yêu cầu bắt buộc mang tính văn hóa tổ chức. Việc giám sát nội bộ hiệu quả là yếu tố quan trọng để đảm bảo uy tín và chất lượng chương trình.

Cũng theo thầy Tuân, việc kiểm định định kỳ đối với các chương trình liên kết quốc tế không chỉ giúp đảm bảo chất lượng đầu ra mà còn hỗ trợ cho việc công nhận văn bằng và tín chỉ giữa các bên liên kết. Do đó, thầy Tuân cho rằng nội dung kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình liên kết quốc tế cần có một thông tư riêng cụ thể, vì đây là lĩnh vực mang tính đặc thù cao, có yếu tố hợp tác quốc tế phức tạp hơn.

Sẽ thiếu công bằng giữa các nhóm ngành/lĩnh vực

Từ góc độ chuyên gia, Tiến sĩ Nguyễn Văn Đường – Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long chia sẻ, nếu Điểm b, Khoản 1, Điều 38 yêu cầu chỉ phải kiểm định định kỳ đối với một số chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành sư phạm, khoa học sức khỏe và pháp luật, trong khi các chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành/lĩnh vực khác không phải kiểm định định kỳ thì sẽ là không công bằng giữa các nhóm ngành/lĩnh vực. Bởi, chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực nào cũng có đặc thù riêng và cần được kiểm định chất lượng theo định kỳ.

“Về tính chất, tất cả các chương trình đào tạo của các nhóm ngành/lĩnh vực đều phải được kiểm định định kỳ để bảo đảm chất lượng theo yêu cầu của bộ tiêu chuẩn, tiêu chí”, thầy Đường chia sẻ.

Cũng theo Giám đốc Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long, chương trình đào tạo nên được thực hiện kiểm định chất lượng theo các chu kỳ quy định tại Thông tư số 04/2025/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về kiểm định chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học (có hiệu lực từ 04/04/2025).

Cụ thể, Khoản 2, 3, và 4 Điều 12, Thông tư số 04 quy định:

"2. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo được thực hiện theo chu kỳ 05 năm đối với chương trình đào tạo được đánh giá ở mức đạt, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.

3. Đối với chương trình đào tạo được đánh giá ở mức đạt có điều kiện thì tối đa 02 năm (24 tháng) phải tiếp tục thực hiện cải tiến chất lượng để được đánh giá ở mức đạt.

4. Đối với chương trình đào tạo được đánh giá đạt ở chu kỳ trước, nếu tiếp tục được đánh giá ở mức đạt với tỷ lệ tiêu chuẩn, tiêu chí đạt cao hơn chu kỳ trước đồng thời kết quả cải tiến chất lượng đáp ứng yêu cầu, cơ bản khắc phục được các điểm yếu đã chỉ ra từ chu kỳ trước thì chu kỳ kiểm định chất lượng tiếp theo là 07 năm.".

Thông qua hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo, với kết quả đánh giá ngoài, nhà trường có căn cứ để cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo. Đồng thời, quá trình kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo cũng giúp nhà trường thúc đẩy việc tự soi xét và đưa ra giải pháp cải thiện từ bên trong.

Thầy Đường cũng nhấn mạnh, hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn đầu phát triển. Do đó, nếu thu hẹp phạm vi chương trình đào tạo bắt buộc kiểm định định kỳ sẽ khó có thể thúc đẩy quá trình cải tiến chất lượng một cách liên tục.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ở những nước phát triển, khi các trường đại học tự chủ và trách nhiệm xã hội cao, việc kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo có thể không bắt buộc nhưng trở thành nhu cầu tự nhân các trường để khẳng định uy tín.

Tuy nhiên, tại Việt Nam, mức phát triển giữa các trường còn chênh lệch, chất lượng đào tạo chưa đồng đều và không ít chương trình đào tạo chưa đạt chuẩn,... nên việc kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo là hết sức cần thiết.

Với những lợi ích mà chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định chất lượng mang lại, việc chỉ phải kiểm định định kỳ đối với một số chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành sư phạm, khoa học sức khỏe và pháp luật, còn các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực khác không bắt buộc cho thấy đây là hướng tiếp cận chưa bảo đảm sự công bằng giữa các nhóm ngành/lĩnh vực.

Ngọc Tường