Sẽ khó quản lý chất lượng của những nhóm ngành, lĩnh vực không kiểm định định kỳ

01/08/2025 06:28
Ngọc Mai
Theo dõi trên Google News

GDVN - Theo chuyên gia, chúng ta chưa đạt đến điều kiện để bỏ cơ chế kiểm định bắt buộc đối với đa số các chương trình đào tạo như dự thảo Luật GDĐH đặt ra.

Dự thảo Luật Giáo dục đại học đang tiếp tục nhận được nhiều sự quan tâm của lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học và chuyên gia, trong đó có nội dung liên quan đến kiểm định chất lượng giáo dục.

Khoản 1, Điều 38, Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định:

"1. Đối tượng phải thực hiện kiểm định định kỳ bao gồm:

a) Các cơ sở giáo dục đại học;

b) Các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật; đối với các chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành, lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.”.

Với quy định này, một số ý kiến bày tỏ lo ngại về yêu cầu đối tượng phải kiểm định định kỳ chỉ gồm các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật thì sẽ không có cơ sở để khẳng định các chương trình đào tạo ở các nhóm ngành, lĩnh vực còn lại đạt kiểm định chất lượng giáo dục.

4.jpg
Nguồn ảnh minh họa: Trường Đại học Ngoại thương

Không kiểm định định kỳ chương trình đào tạo sẽ khó quản lý chất lượng

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, hiệu trưởng một trường đại học đào tạo khối ngành kinh tế - kỹ thuật chia sẻ, việc quy định các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật phải thực hiện kiểm định định kỳ là hợp lý, thể hiện sự tiến bộ trong cách tiếp cận.

Nhiều quốc gia trên thế giới không bắt buộc tất cả chương trình đào tạo của trường đại học phải kiểm định chất lượng giáo dục, mà để các trường tự nguyện đăng ký. Tuy nhiên, ở những quốc gia đó, nếu muốn được xã hội tin tưởng, được doanh nghiệp công nhận và sẵn sàng tuyển dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp, thì các cơ sở đào tạo đại học chủ động đầu tư và tham gia kiểm định chất lượng đối với các chương trình đào tạo.

“Những chương trình đào tạo liên quan đến kỹ thuật, cầu đường, kiến trúc,... cũng nên được kiểm định định kỳ. Bởi trên thế giới, có một số nước yêu cầu các ngành đào tạo về kỹ thuật, kiến trúc bắt buộc phải kiểm định chất lượng giáo dục vì có tác động lớn đến an toàn xã hội. Do đó, tại Điều 38, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thêm các chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành, lĩnh vực khác phải thực hiện kiểm định định kỳ thì cũng nên có tiếp cận phù hợp với xu hướng quốc tế”, vị hiệu trưởng chia sẻ.

Từ góc độ chuyên gia kiểm định chất lượng giáo dục, Tiến sĩ Dương Mộng Hà - Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn cho rằng, việc yêu cầu kiểm định định kỳ đối với các nhóm ngành đặc thù như đào tạo giáo viên, sức khỏe, pháp luật là hợp lý. Song, các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực khác cũng cần có mức độ kiểm định chất lượng giáo dục nhất định.

Nếu một số chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành/lĩnh vực khác không được kiểm định định kỳ sẽ dẫn đến tình trạng thiếu cân bằng trong đảm bảo chất lượng giữa các chương trình, lo ngại có trường chưa thật sự tự giác trong bảo đảm chất lượng chương trình đào tạo do không phải kiểm định định kỳ.

ts-duong-mong-ha-3102.jpg
Tiến sĩ Dương Mộng Hà - Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn. Ảnh: website Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh

“Cốt lõi của kiểm định chất lượng chương trình đào tạo là để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Khi các cơ sở giáo dục đại học đã đi vào nề nếp, quen với quy trình bảo đảm chất lượng thì việc chuẩn bị các điều kiện để đạt kiểm định chất lượng chương trình đào tạo sẽ không tốn quá nhiều thời gian. Đặc biệt, khi áp dụng chuyển đổi số trong việc trình minh chứng, quá trình kiểm định được rút gọn đáng kể về thời gian, khối lượng công việc cho cơ sở giáo dục, trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục”, thầy Hà chia sẻ.

Từ thực tiễn, thầy Hà cho rằng dù kiểm định chất lượng giáo dục ở nhiều quốc gia mang tính tự nguyện nhưng thực tế đó cho thấy là “sự tự nguyện bắt buộc” theo yêu cầu xã hội. Tức là dù pháp luật không quy định nhưng người học, doanh nghiệp và xã hội luôn dành sự tín nhiệm cao hơn cho những chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng giáo dục. Sinh viên tốt nghiệp từ các chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định chất lượng thậm chí không cần qua phỏng vấn cũng được doanh nghiệp tiếp nhận. Đó là một minh chứng rõ ràng cho giá trị thực tiễn của kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Những chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định chất lượng thì mặc nhiên tạo dựng được lòng tin hơn. Nói như vậy để thấy kiểm định là tấm gương phản chiếu chất lượng chương trình đào tạo.

Nếu chỉ quy định một số chương trình đào tạo bắt buộc kiểm định định kỳ, trong khi các chương trình đào tạo khác không bắt buộc, sẽ phát sinh câu hỏi về tính công bằng và hợp lý. Khi đó, cơ quan quản lý, các trường sẽ phải lý giải với người học, với xã hội vì sao chương trình đào tạo này thực hiện kiểm định chất lượng, còn chương trình đào tạo khác lại không?

“Việc kiểm định định kỳ đối với các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành, lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định, vậy chương trình đào tạo thế nào thì bắt buộc kiểm định, căn cứ vào đâu để xác định? Đây là vấn đề mà cơ quan quản lý cần nghiên cứu kỹ lưỡng”, thầy Hà chia sẻ.

Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Phụng - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo bày tỏ sự băn khoăn khi hiện nay những trường đại học đạt kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục được tự chủ mở ngành đào tạo trình độ đại học, có nghĩa là các điều kiện đảm bảo chất lượng ngành đào tạo không còn sử dụng chế độ tiền kiểm. Vậy khi đó, thực hiện cơ chế hậu kiểm đối với các chương trình đào tạo của mỗi ngành được tự chủ mở ra sao nếu không phải kiểm định chất lượng giáo dục? Và những chương trình đào tạo đã được cấp phép đào tạo theo chế độ tiền kiểm trước đây có duy trì được các điều kiện đảm bảo chất lượng hay không?

ts-phunggg.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Phụng - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ảnh: NVCC

Hiện nay cũng không còn thanh tra chuyên ngành, lực lượng và độ bao phủ của hoạt động kiểm tra còn hạn chế, thì kiểm định chất lượng giáo dục cần trở thành công cụ quan trọng trong cơ chế hậu kiểm. Nếu bỏ luôn kiểm định định kỳ đối với đa số các chương trình đào tạo có thể dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý. Chính vì thế, vấn đề này phải được đánh giá tác động và tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển để có thể xác định chính sách quản lý chất lượng hiệu quả trong thời gian tới.

"Thực tiễn cho thấy, việc đánh giá tác động của chính sách giáo dục cũng khó có thể thấy được ngay, ít nhất phải sau 5 năm trở lên, khi đó thị trường lao động đã sử dụng một số sản phẩm đào tạo mà không có tiền kiểm và hậu kiểm, nhưng có thể lúc đó đã muộn”, cô Phụng nhìn nhận.

Một số ý kiến cho rằng đã có thủ tục đăng ký hoạt động thay thế kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Tuy nhiên, cô Phụng cho rằng việc đăng ký hoạt động chỉ có thể thay được thủ tục cấp phép hoạt động. Hơn nữa, nếu thủ tục đăng ký hoạt động thay thế kiểm định chất lượng chương trình đào tạo sẽ cho thấy một số vấn đề cần phải xem xét. Cụ thể, việc đăng ký hoạt động được thực hiện đến nhóm ngành, như vậy cơ quan quản lý sẽ có nhiều việc phải làm hơn so với hiện nay (chỉ có thủ tục cho phép hoạt động cơ sở giáo dục đại học 1 lần trước khi hoạt động). Tuy nhiên, trong 1 nhóm ngành có nhiều ngành, với những điều kiện, yêu cầu rất khác nhau mà trong 1 ngành lại có thể có nhiều chương trình đào tạo, do đó việc đăng ký hoạt động theo nhóm ngành khó có thể bao phủ được chất lượng của tất cả các chương trình đào tạo.

Tương tự, nếu chỉ kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của 1 ngành trong nhóm ngành, ví dụ như trong nhóm ngành Kỹ thuật cơ điện tử có 13 ngành khác nhau thì khó có thể nói chương trình đào tạo của ngành Kỹ thuật in đạt kiểm định thì các ngành khác như Kỹ thuật hàng không, Kỹ thuật tàu thủy… đương nhiên đạt chất lượng. Bởi yêu cầu đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo của các ngành này không giống nhau.

Hơn nữa, đăng ký hoạt động là chế độ tiền kiểm, không nên mở rộng để thay thế chế độ hậu kiểm đối với các chương trình đào tạo đã được xác lập thông qua cơ chế kiểm định chất lượng giáo dục. Nếu mở rộng tiền kiểm sẽ làm cho độ trễ gia tăng, ảnh hưởng đến quyền tự chủ và tính linh hoạt của hoạt động đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường, trong điều kiện công nghệ, kỹ thuật thay đổi nhanh chóng.

“Nếu không thực hiện kiểm định định kỳ đối với chương trình đào tạo của các nhóm ngành/lĩnh vực khác, rất khó có thể quản lý được chất lượng của các ngành đào tạo thuộc danh mục mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang quản lý”, cô Phụng chia sẻ.

Chưa đạt đến điều kiện để bỏ cơ chế kiểm định bắt buộc đối với chương trình đào tạo

Thực tế cho thấy, có một số nhận xét rằng việc kiểm định chất lượng chương trình đào tạo gây tốn kém, và mất nhiều thời gian của trường đại học, trong khi tính hiệu quả chưa thực sự đo đếm được.

Cô Phụng cho rằng điều này không hoàn toàn đúng và không hoàn toàn sai, vì nó đúng một phần ở một số địa chỉ, thời điểm, chủ thể, góc nhìn,...

Các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đã được cấp phép hoạt động và các kiểm định viên đã được cấp thẻ thì đều đạt yêu cầu. Chỉ có điều, đôi lúc họ làm việc chưa thực sự bằng cái tâm, bằng đạo đức nghề nghiệp, còn chạy theo doanh thu, chú trọng làm vừa lòng khách hàng hơn là vai trò kiểm định. Hoặc kiểm định viên không liên tục phát triển năng lực hoặc chưa chú trọng phát huy thế mạnh bản thân mà nhận nhiều việc không thuộc thế mạnh, dẫn đến chất lượng kiểm định chưa tốt. Thậm chí chính nhà trường, đâu đó cũng muốn hợp tác với trung tâm “dễ” chỉ để nhằm mục đích có giấy chứng nhận đạt chất lượng, không chú trọng tới một tác dụng khác không kém phần quan trọng của kiểm định là đánh giá và tư vấn từ các chuyên gia bên ngoài để phát triển… Tuy nhiên, nhấn mạnh rằng đây chỉ là tình trạng của số ít, không phải tình trạng phổ biến.

screenshot-2025-05-16-090806.jpg
Nguồn ảnh minh họa: Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

"Nếu các bên (gồm nhà trường, tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục và kiểm định viên) đều hướng tới uy tín và chất lượng thì chắc chắn chất lượng của công tác kiểm định chất lượng chương trình đào tạo sẽ được nâng cao và có giá trị thiết thực trong xây dựng văn hóa chất lượng và phát triển nhà trường. Điều này được minh chứng tại rất nhiều nước phát triển có lịch sử tự chủ đại học lâu đời, kiểm định chất lượng giáo dục không còn là bắt buộc nhưng các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục vẫn phát triển và các trường vẫn mời tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục uy tín để kiểm định định kỳ.

Tuy nhiên, chúng ta mới làm quen với công tác kiểm định trong khoảng hơn 10 năm nay, chưa qua chu kỳ thứ nhất, chưa đạt đến điều kiện để bỏ cơ chế kiểm định bắt buộc đối với đa số các chương trình đào tạo như dự thảo Luật Giáo dục đại học đang đặt ra", cô Phụng bày tỏ.

Để kiểm định chất lượng chương trình đào tạo không quá tốn kém, cần sự kết hợp nhiều giải pháp. Theo cô Phụng, thứ nhất, Nhà nước nên quy định khung giá dịch vụ kiểm định chất lượng phù hợp để vừa tính đến giá trị lao động chuyên gia, vừa giảm thiểu tình trạng tăng giá không hợp lý hoặc cạnh tranh giảm giá làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động kiểm định.

Thứ hai, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã mở rộng thời gian của chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục thứ hai, nếu kết quả tốt hơn chu kỳ đầu thì thời hạn công nhận chất lượng là 7 năm là đã giãn thời gian kiểm định chất lượng giáo dục cho các chương trình đào tạo tốt một cách thỏa đáng.

“Có thể tiếp tục quy định: từ chu kỳ thứ ba, nếu tốt hơn chu kỳ thứ hai thì thời hạn công nhận chất lượng là 10 năm. Như vậy, hệ thống chỉ mất thời gian nhiều hơn cho chu kỳ đầu, để nề nếp làm việc và xu hướng cải tiến liên tục được hình thành rõ nét hơn ở các trường. Sau đó, có thể giãn chu kỳ kiểm định để không mất nhiều thời gian nhưng vẫn kiểm soát được điều kiện đảm bảo chất lượng và xu hướng cải tiến liên tục trong mọi hoạt động”, cô Phụng chia sẻ.

Thứ ba, Bộ Giáo dục và Đào tạo mở rộng cơ sở dữ liệu giáo dục đại học theo yêu cầu của công tác kiểm định chất lượng để các cơ sở đào tạo báo cáo, cập nhật và các tổ chức kiểm định chất lượng, các kiểm định viên được sử dụng để rút ngắn thời gian khảo sát thực tế tại các trường. Kinh nghiệm này ở Úc đã được thực hiện rất hiệu quả.

Thứ tư, mỗi ngành đào tạo chỉ quy định kiểm định định kỳ 1 chương trình đào tạo (trừ một số ngành nhà nước thấy cần thiết phải kiểm định tất cả các chương trình đào tạo như các ngành sức khỏe, đào tạo giáo viên, pháp luật). Mức này là phù hợp trong điều kiện nhà nước đang quản lý danh mục ngành đào tạo. Nó cũng đảm bảo quyền tự chủ mở ngành của các trường, nhà nước quản lý được chất lượng mà không phải mở rộng cơ chế tiền kiểm, cơ chế xin – cho…

Thứ năm, các trường cần đánh giá lại các chương trình đào tạo, có thể đóng một số chương trình đào tạo không còn phù hợp. Việc mở các ngành/chương trình đào tạo mới cần cân nhắc kỹ về sự cần thiết theo nhu cầu xã hội, tránh tình trạng mở nhiều ngành, nhiều chương trình đào tạo để tuyển sinh được nhiều như thực tế ở một số trường trong thời gian qua.

Thứ sáu, khi lựa chọn dịch vụ kiểm định chất lượng giáo dục, các trường nên ưu tiên các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục, các kiểm định viên có chất lượng trên cùng địa bàn để giảm thiểu chi phí đi lại, lưu trú…

"Nếu thực hiện tất cả các giải pháp trên, từ chu kỳ thứ 2 trở đi, công tác kiểm định chất lượng chương trình đào tạo gọn nhẹ do cơ sở dữ liệu đầy đủ, thời gian công nhận đạt chất lượng dài… mà không buông lỏng quản lý chất lượng đối với bất cứ chương trình đào tạo nào, giai đoạn nào", cô Phụng chia sẻ.

Còn theo Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, hiện nay việc quy định chu kỳ kiểm định chương trình đào tạo là 5 năm cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Với những chương trình đạt kiểm định lần đầu, thời hạn 5 năm là hợp lý. Từ lần thứ hai trở đi, có thể kéo dài lên 7 năm hoặc hơn, tùy vào mức độ ổn định và uy tín của chương trình đào tạo.

Xét trên tổng thể, khoản kinh phí chi cho hoạt động kiểm định chất lượng chương trình đào tạo không phải quá lớn, nhất là khi mỗi chương trình đào tạo được đánh giá định kỳ 5–7 năm một lần.

Thầy Hà cũng cho rằng, việc giảm số lượng chương trình đào tạo phải kiểm định định kỳ có thể ảnh hưởng đến khả năng liên kết đào tạo quốc tế và việc công nhận văn bằng. Nhiều trường đại học nước ngoài thường ưu tiên hợp tác với những cơ sở có chương trình đào tạo đã được kiểm định chất lượng vì điều đó tạo dựng được niềm tin của xã hội.

Ngoài ra, kết quả kiểm định cũng gián tiếp tác động đến xếp hạng đại học. Dù trước đây từng có quan điểm cho rằng kiểm định và xếp hạng là hai việc tách biệt, nhưng thực tế, các tiêu chí, tiêu chuẩn trong kiểm định chất lượng giáo dục lại có tính tác động nhất định đối với các tiêu chí xếp hạng đại học, tùy từng bảng xếp hạng.

Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo nên tiếp tục được duy trì trong giai đoạn hiện nay với kiểm định định kỳ. Bởi dù hệ thống bảo đảm chất lượng đang từng bước được hoàn thiện từ hành lang pháp lý đến sự hình thành của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục độc lập uy tín, nhưng tinh thần tự giác và văn hóa bảo đảm chất lượng trong các trường vẫn cần thêm thời gian để thấm sâu và lan tỏa thật sự. Chỉ khi nào văn hóa chất lượng đã trở thành nội lực của nhà trường, và khi kiểm định chất lượng giáo dục là yêu cầu xã hội thì lúc đó mới có thể chuyển sang kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tự nguyện của các trường.

Ngọc Mai