Ứng viên PGS công bố 13 bài báo trong nửa năm 2025: Có là hiện tượng bình thường?

28/08/2025 06:30
Mai Anh

GDVN - Tiến sĩ Đinh Thị Phương Hoa công bố 8 bài báo trong nước, 5 bài quốc tế trong 6 tháng đầu năm 2025 - sát hạn nộp hồ sơ ứng viên phó giáo sư.

Vừa qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã đăng tải bài viết: “Ứng viên PGS Đinh Thị Phương Hoa: Nửa năm 2025 công bố 8 bài báo trong nước và 5 bài quốc tế”.

Theo bài viết, trong bản đăng ký xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư kí ngày 29/6/2025 của Tiến sĩ Đinh Thị Phương Hoa - Trưởng khoa Khoa Ngoại ngữ Pháp lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2025, cô Hoa đăng ký xét tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư tại Hội đồng Giáo sư cơ sở Trường Đại học Luật Hà Nội và đăng ký xét đạt tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư tại Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành: Khoa học Giáo dục, chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn tiếng Anh.

Sau khi được công nhận tiến sĩ (từ sau ngày 31/5/2021 đến nay), cô Hoa đã công bố 8 bài báo trên tạp chí trong nước và 7 bài báo trên tạp chí quốc tế. Trong số này, riêng nửa đầu năm 2025, cô Hoa có 5 bài báo quốc tế, 8 bài báo trên tạp chí trong nước.

Theo tìm hiểu của phóng viên, trong năm 2025, cô Hoa là tác giả chính của 3 bài báo đăng trên tạp chí quốc tế nằm trong danh mục Scopus. Cụ thể như sau:

Bài “Recommendations For Policy Implementation Of Teaching English As A Second Language In Vietnam’s Education System” (tạm dịch: Khuyến nghị thực hiện chính sách giảng dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục Việt Nam -PV) đăng vào ngày 9/5/2025 trên International Journal of Environmental Sciences (Tạp chí Khoa học Môi trường Quốc tế - tạm dịch) - Scopus Q4. Bài báo phân tích toàn diện bối cảnh thực thi chính sách đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Trên cơ sở phân tích chính sách giáo dục quốc gia, kinh nghiệm quốc tế và kết quả khảo sát thực tiễn, bài báo chỉ ra cả những điều kiện thuận lợi và thách thức, từ đó đề xuất các giải pháp và khuyến nghị để thực thi chính sách một cách phù hợp.

Bài “Using Pictures to Enhance Fluency and Engagement among Second Year Non-Major Students at Hanoi Law University (HLU)” (tạm dịch: Sử dụng hình ảnh để tăng cường sự lưu loát và sự tương tác giữa sinh viên năm thứ hai không chuyên ngành tại Trường Đại học Luật Hà Nội -PV) đăng vào ngày 10/6/2025 trên Journal of Posthumanism thuộc Scopus Q1 (Cultural Studies)/Q3 (Social Sciences). Bài báo đưa ra một số khuyến nghị hiệu quả về việc nâng cao trình độ giảng dạy và học tập bốn kỹ năng tiếng Anh tại Việt Nam.

Bài “Vietnam’s University Autonomy Policy: An Educational Policy Analysis Perspective” (tạm dịch: Chính sách tự chủ đại học của Việt Nam: Góc nhìn phân tích chính sách giáo dục -PV) đăng ngày 18/6/2025 trên International Journal of Environmental Sciences (Tạp chí Khoa học Môi trường Quốc tế - tạm dịch). Bài báo tìm hiểu quá trình phát triển chính sách tự chủ đại học ở Việt Nam từ những năm 1990 đến nay, trong bối cảnh rộng hơn của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức của đất nước và toàn cầu hóa giáo dục đại học. Từ đó, đề xuất một loạt các khuyến nghị chính sách chiến lược nhằm tăng cường tính bền vững và khả năng cạnh tranh toàn cầu của giáo dục đại học Việt Nam.

Cũng trong năm 2025, cô Hoa có 2 bài báo đăng trên tạp chí quốc tế không nằm trong danh mục WoS/Scopus gồm: “Challenges of Teaching Legal English at a Law Higher Education Institution – Lecturers’ Voices” (tạm dịch: Những thách thức trong việc giảng dạy tiếng Anh pháp lý tại một cơ sở giáo dục đại học luật – Tiếng nói của giảng viên -PV) đăng ngày 28/3/2025 trên Indonesian Journal of English Language Studies (Tạp chí Nghiên cứu Ngôn ngữ Anh Indonesia - tạm dịch); và bài “Wash back of The Vietnam 6-Levels Foreign Language Competency Framework on Institutional Policies and Teaching English for Non-English Major Students at Hanoi Law University” (tạm dịch: Tóm tắt Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam về chính sách thể chế và giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Đại học Luật Hà Nội -PV), đăng ngày 15/5/2025 trên FAR Journal of Arts, Humanities and Social Studies (Tạp chí Nghệ thuật, Nhân văn và Nghiên cứu Xã hội FAR).

co-hoa.jpg
Tổng số bài báo khoa học đã công bố của Tiến sĩ Đinh Thị Phương Hoa trong 18 năm thực hiện nhiệm vụ đào tạo. Ảnh: KH.

Sau khi bài viết được đăng tải, nhiều độc giả bày tỏ băn khoăn về việc nhiều bài báo được đăng trong 6 tháng đầu năm 2025 - trước thời điểm nộp hồ sơ ứng viên phó giáo sư nhất là trong bối cảnh dư luận ngày càng quan tâm đến yêu cầu bảo đảm tính liêm chính học thuật.

Băn khoăn khi 6 tháng, nhà khoa học công bố 5 bài báo quốc tế

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đăng Sinh – nguyên Trưởng khoa Khoa Triết học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng, về mặt khách quan, chúng ta cần đặt ra câu hỏi đối với ứng viên có nhiều bài báo được đăng trên tạp chí quốc tế trong khoảng thời gian ngắn.

Nếu một ứng viên công bố cùng lúc nhiều bài báo trong nước và bài báo quốc tế trong thời gian ngắn, nhất là gần đến hạn nộp hồ sơ xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư khó có thể được coi là hiện tượng bình thường. Bởi, đối với hầu hết các ngành thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội và Nhân văn, để có một bài báo đăng trên tạp chí quốc tế uy tín thuộc danh mục dữ liệu WoS/Scopus, nhà nghiên cứu thường phải dành nhiều tháng, thậm chí cả năm để nghiên cứu và chuẩn bị. Bởi ở lĩnh vực Khoa học xã hội và Nhân văn, nghiên cứu chủ yếu dựa vào kế thừa, phân tích và phát triển dựa trên nền tảng, vì vậy cần thận trọng khi đánh giá số lượng công bố khoa học ở lĩnh vực Khoa học xã hội và Nhân văn.

Bài báo quốc tế luôn là tiêu chí được nhắc đến trong mỗi đợt xét tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư. Theo thầy Sinh, mỗi tạp chí quốc tế cũng được xếp vào các thứ hạng khác nhau. Ở lĩnh vực Khoa học xã hội và Nhân văn, việc trong một năm có 2-3 bài báo đăng trên tạp chí quốc tế uy tín đã là sự cố gắng rất lớn của nhà khoa học.

"Nếu chỉ trong vài tháng mà nhà khoa học đã có số bài báo quốc tế tăng một cách đột biến so với những năm trước thì đây là dấu hiệu bất thường và cần xem xét”, thầy Sinh chia sẻ.

Trong khi đó, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Ứng Vận - nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Văn phòng Chính phủ chia sẻ, nghiên cứu khoa học không thể như “gà đẻ trứng”, bởi có những đề tài phải mất nhiều năm mới cho ra kết quả.

“Việc công bố một bài báo trên tạp chí quốc tế uy tín đã là khó khăn, thứ hạng của tạp chí càng cao thì độ khó lại càng tăng lên. Vì vậy, nếu trong thời gian ngắn, việc một nhà khoa học liên tiếp công bố bài báo quốc tế thì hội đồng cũng cần xem xét kỹ lưỡng”, thầy Vận chia sẻ.

Thêm nữa, trong quá trình hội đồng xét duyệt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư tiến hành thẩm định hồ sơ ứng viên và nhận thấy chất lượng của các bài báo chưa đạt thì có thể tính đến việc hạ điểm. Ngược lại, nếu các bài báo thực sự chất lượng thì cần phải bảo đảm công bằng cho ứng viên.

Băn khoăn ứng viên có thật sự nghiên cứu hay chỉ tham gia để được "đứng tên" trong bài báo?

Cùng đưa ra nhận định, một hiệu trưởng trường đại học ở Thanh Hóa được công nhận đạt chuẩn chức danh phó giáo sư cách đây 5 năm cho biết, trên thực tế, nhà khoa học càng đến gần thời điểm nộp hồ sơ xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư thì càng được khuyến khích và phải nỗ lực, “tăng tốc” hơn so với giai đoạn đầu trong công bố khoa học. Tuy nhiên, với những trường hợp “tăng tốc” bất thường, nghĩa là trong thời gian ngắn mà số lượng công bố quốc tế lại quá lớn thì cần thiết phải được hội đồng giáo sư thẩm định và xem xét nghiêm túc.

“Mỗi người đều có giới hạn về thời gian và sức lực. Với khối lượng công việc của lãnh đạo - trưởng khoa, trong vài tháng có thể công bố nhiều bài báo quốc tế cũng là điều đáng lưu ý. Mặc dù chúng ta có thể nói rằng, thầy cô làm cán bộ quản lý cũng là những người làm việc năng suất, nhưng sự “năng suất” đó phải đặt trong bối cảnh thực tế. Thông thường để đăng một bài báo trên các tạp chí quốc tế trong danh mục WoS/Scopus thuộc Q1, Q2, các nhóm nghiên cứu, nhà khoa học phải mất thời gian dài, thậm chí hàng năm để theo đuổi. Còn bài báo thuộc Q3, Q4 có thể nhiều hơn nhưng chất lượng chưa cao”, vị này chia sẻ.

Vị phó giáo sư cũng cho rằng, với những trường hợp ứng viên có số lượng lớn bài báo quốc tế được đăng tải trong thời gian ngắn, hội đồng giáo sư các cấp cần đánh giá một cách nghiêm túc, từ chất lượng tạp chí, nội dung bài báo, đến vai trò thực sự của ứng viên trong nghiên cứu đó.

Chi tiết các bài báo công bố trên tạp chí trong nước và tạp chí quốc tế của ứng viên Phó Giáo sư Đinh Thị Phương Hoa sau khi được công nhận tiến sĩ như sau:

image.png
image-1.png
image-2.png
image-3.png
Ảnh chụp màn hình

Tạp chí khoa học được xếp hạng theo 4 nhóm dựa trên số lượng trích dẫn, số lượng bài báo được công bố và uy tín của các tạp chí trích dẫn tạp chí được đề cập. Trong đó, Q1 bao gồm các tạp chí uy tín nhất trong lĩnh vực với số lượng trích dẫn cao nhất. Kế đến lần lượt là Q2, Q3 và Q4 với mức độ uy tín và ảnh hưởng giảm dần.

Tại Điều 6, Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn chức danh phó giáo sư như sau:

1. Đạt tiêu chuẩn chung của chức danh phó giáo sư quy định tại Điều 4 Quyết định này.

2. Có bằng tiến sĩ đủ 03 năm trở lên kể từ ngày ký quyết định cấp bằng tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ.

3. Có ít nhất 06 năm, trong đó phải có 03 năm cuối liên tục tham gia đào tạo, bồi dưỡng từ trình độ đại học trở lên tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ. Ứng viên không đủ 06 năm và ứng viên không đủ số giờ chuẩn giảng dạy quy định tại khoản 3 Điều 4 Quyết định này thì phải có ít nhất gấp hai lần điểm công trình khoa học quy đổi tối thiểu đóng góp từ các bài báo khoa học hoặc (và) bằng độc quyền sáng chế; giải pháp hữu ích; tác phẩm nghệ thuật, thành tích huấn luyện, thi đấu thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế quy định tại điểm b khoản 8 Điều này.

4. Công bố kết quả nghiên cứu khoa học

a) Ứng viên là tác giả chính đã công bố được ít nhất 02 bài báo khoa học hoặc (và) bằng độc quyền sáng chế; giải pháp hữu ích; tác phẩm nghệ thuật, thành tích huấn luyện, thi đấu thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc tế. Ứng viên không đủ công trình khoa học quy định tại điểm này thì phải có ít nhất 01 trong số các công trình nêu trên và 01 chương sách phục vụ đào tạo do một nhà xuất bản có uy tín trên thế giới xuất bản hoặc có ít nhất 01 trong số các công trình nêu trên và 01 sách chuyên khảo do một nhà xuất bản có uy tín xuất bản;

b) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2020: Ứng viên là tác giả chính đã công bố được ít nhất 03 bài báo khoa học hoặc (và) bằng độc quyền sáng chế; giải pháp hữu ích; tác phẩm nghệ thuật, thành tích huấn luyện, thi đấu thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc tế. Ứng viên không đủ công trình khoa học quy định tại điểm này thì phải có ít nhất 02 trong số các công trình nêu trên và 01 chương sách phục vụ đào tạo do một nhà xuất bản có uy tín trên thế giới xuất bản hoặc có ít nhất 02 trong số các công trình nêu trên và 01 sách chuyên khảo do một nhà xuất bản có uy tín xuất bản.

5. Chủ trì thực hiện ít nhất 02 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở hoặc 01 nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ đã nghiệm thu kết quả từ đạt yêu cầu trở lên. Ứng viên không thực hiện đủ nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy định tại khoản này thì được thay thế bằng 01 bài báo khoa học hoặc một trong số các công trình: Bằng độc quyền sáng chế; giải pháp hữu ích; tác phẩm nghệ thuật, thành tích huấn luyện, thi đấu thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc tế.

6. Hướng dẫn ít nhất 02 học viên được cấp bằng thạc sĩ hoặc hướng dẫn chính hoặc phụ ít nhất 01 nghiên cứu sinh được cấp bằng tiến sĩ. Đối với ngành khoa học sức khỏe, hướng dẫn 01 học viên bảo vệ thành công luận văn chuyên khoa hoặc bác sĩ nội trú được tính như hướng dẫn 01 học viên được cấp bằng thạc sĩ; ứng viên không hướng dẫn đủ học viên hoặc nghiên cứu sinh quy định tại khoản này thì được thay thế bằng công trình khoa học quy đổi. Hướng dẫn 01 học viên được cấp bằng thạc sĩ được thay thế bằng 01 trong số các công trình: Bài báo khoa học; bằng độc quyền sáng chế; giải pháp hữu ích; sách phục vụ đào tạo; tác phẩm nghệ thuật, thành tích huấn luyện, thi đấu thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc tế.

7. Bài báo khoa học quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này là bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín từ sau khi ứng viên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.

8. Ứng viên phải có ít nhất 10,0 điểm công trình khoa học quy đổi, trong đó:

a) Có ít nhất 2,5 điểm công trình khoa học được thực hiện trong 03 năm cuối tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ;

b) Ứng viên thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ, lĩnh vực khoa học sức khỏe phải có ít nhất 6,0 điểm công trình khoa học tính từ các bài báo khoa học, bằng độc quyền sáng chế hoặc giải pháp hữu ích. Ứng viên thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, lĩnh vực nghệ thuật, thể dục thể thao phải có ít nhất 4,0 điểm công trình khoa học tính từ các bài báo khoa học hoặc giải pháp hữu ích; tác phẩm nghệ thuật, thành tích huấn luyện, thi đấu thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế.

Mai Anh