Trường ĐH Tôn Đức Thắng: Nguồn thu từ khoa học công nghệ giảm, số lượng giáo sư khiêm tốn

09/10/2025 06:28
An Vy

GDVN - Theo Báo cáo thường niên năm 2024, Trường Đại học Tôn Đức Thắng chỉ có 6 giáo sư trên tổng số 696 giảng viên toàn thời gian.

Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT (gọi là Thông tư 01) về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.

Theo quy định, các cơ sở giáo dục đại học phải chốt số liệu vào ngày 31 tháng 12 hằng năm; đối với số liệu về tài chính, thời điểm chốt số liệu là ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo.

Thời gian qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được phản ánh của phụ huynh liên quan đến việc Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Tôn Đức Thắng có nhiều thông tin chưa rõ.

Để tìm hiểu rõ hơn về việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí tại Thông tư 01, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam gửi câu hỏi tới Nhà trường và đã nhận được chia sẻ của Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

Hiện, Tiến sĩ Trần Trọng Đạo là Hiệu trưởng nhà trường; Tiến sĩ Vũ Anh Đức là Chủ tịch Hội đồng trường.

tdtu.png
Trường Đại học Tôn Đức Thắng tọa lạc tại số 19 Nguyễn Hữu Thọ, phường Tân Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.

Tỷ lệ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ vượt Chuẩn nhưng số giáo sư còn hạn chế

Theo số liệu tại bảng thống kê đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và nhân viên ở Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho thấy, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của nhà trường đạt 40,09%; vượt tỷ lệ Chuẩn yêu cầu.

Tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ theo điểm b, tiêu chí 2.3, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: “Không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ”.

Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết, trong nhiều năm qua, nhà trường đã xây dựng chính sách đồng bộ để thu hút và giữ chân đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, cụ thể:

Cơ chế đãi ngộ minh bạch, cạnh tranh: Thực hiện chính sách lương, thưởng, hỗ trợ nghiên cứu, công bố quốc tế, xét nâng lương trước hạn,…trên cơ sở đánh giá kết quả công việc và năng lực thực chất.

Môi trường nghiên cứu học thuật thuận lợi: Trường đầu tư hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại, các nhóm nghiên cứu mạnh, quỹ hỗ trợ đề tài, cơ chế hỗ trợ công bố WoS/Scopus, qua đó tạo động lực cho giảng viên nghiên cứu.

Chính sách hỗ trợ phát triển nghề nghiệp: Khuyến khích giảng viên tham gia các chương trình sau tiến sĩ, nghiên cứu trao đổi quốc tế, tham dự hội nghị, hội thảo quốc tế.

Văn hóa tổ chức ổn định, đề cao học thuật: Môi trường làm việc chuyên nghiệp, minh bạch, khuyến khích học thuật và hợp tác quốc tế.

Nhà trường thường xuyên rà soát, điều chỉnh và cập nhật chính sách nhằm bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn, tạo môi trường thuận lợi để đội ngũ nhân sự phát triển lâu dài.

Trường Đại học Tôn Đức Thắng hiện có tổng cộng 696 giảng viên toàn thời gian; tuy nhiên, chỉ có 6 giảng viên đạt chức danh giáo sư, phân bổ ở các lĩnh vực gồm Kiến trúc xây dựng; Kỹ thuật; Nghệ thuật; Pháp luật; Sức khỏe; Toán thống kê. Tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư còn khá khiêm tốn, nhiều lĩnh vực của trường không có giáo sư.

Lý giải về vấn đề này, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết: “Trường luôn khuyến khích, hỗ trợ giảng viên phát triển học thuật ở mức cao nhất thông qua các hoạt động như ưu tiên kinh phí nghiên cứu, chính sách thu hút học giả quốc tế, khuyến khích giảng viên tham gia nhóm nghiên cứu mạnh, và định hướng đội ngũ trẻ phấn đấu đạt các tiêu chuẩn phó giáo sư, giáo sư trong tương lai.

Do đặc điểm cơ cấu nguồn nhân lực, phần lớn giảng viên trình độ tiến sĩ của trường còn trẻ, hoặc mới được bổ nhiệm chức danh phó giáo sư nên cần thêm thời gian tích lũy để đáp ứng tiêu chuẩn xét chức danh giáo sư.

Tuy nhiên với chính sách thu hút và môi trường làm việc thuận lợi nên những năm gần đây Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã thu hút nhiều giáo sư, chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nước về làm việc, giảng dạy và nghiên cứu. Do vậy, cùng với lực lượng đào tạo tại chỗ, Trường Đại học Tôn Đức Thắng ngày càng chào đón nhiều giáo sư và nhà khoa học về làm việc với trường”.

kiem-dinh-tdtu.png
Một số ngành/chương trình đào tạo được Trường Đại học Tôn Đức Thắng thực hiện kiểm định trong thời gian gần đây. Ảnh chụp màn hình.

Bên cạnh đó, Trường Đại học Tôn Đức Thắng hiện đào tạo 44 ngành/chuyên ngành, trong đó, toàn bộ chương trình đào tạo đều đã được kiểm định chất lượng bởi các tổ chức quốc tế như AUN-QA, FIBAA và ASIIN.

Đại diện Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết: “Luật Giáo dục đại học (2012, sửa đổi 2018) và Thông tư 04/2025/TT-BGDĐT quy định rõ cơ sở đào tạo có thể lựa chọn tổ chức kiểm định trong nước hoặc quốc tế được Bộ công nhận. Việc lựa chọn các tổ chức kiểm định quốc tế trên cơ sở pháp lý cho phép như nêu trên, định hướng chiến lược hội nhập, phát triển bền vững của nhà trường.

Đến nay, Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã được công nhận đạt chuẩn cơ sở giáo dục bởi HCÉRES (Hội đồng cấp cao về Đánh giá nghiên cứu và Giáo dục đại học Cộng hoà Pháp) và FIBAA (Tổ chức phi chính phủ về bảo đảm chất lượng giáo dục), đồng thời có 20 chương trình đạt chuẩn AUN-QA, 15 chương trình đạt chuẩn FIBAA và 9 chương trình đạt chuẩn ASIIN, cho thấy nỗ lực bền bỉ của nhà trường trong việc tiếp cận và duy trì các chuẩn kiểm định quốc tế.

Việc này giúp nhà trường đối sánh chất lượng với chuẩn mực khu vực và quốc tế; đồng thời, nhờ đó, người học được thụ hưởng môi trường đào tạo minh bạch, liên tục cải tiến, bằng cấp được công nhận rộng rãi và có nhiều cơ hội hợp tác, việc làm”.

Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn chưa cao

Theo bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, tỷ lệ nhập học trung bình 3 năm của Trường Đại học Tôn Đức Thắng đạt 90,1%. Tỷ lệ sinh viên thôi học là 6,97% và tỷ lệ sinh viên thôi học năm đầu là 5,37%, chưa vượt quá quy định mà Chuẩn đề ra.

Ngoài ra, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng chuyên môn đạt 92%. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp của nhà trường đạt 99,8%; trong đó, 41,7% tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn (tức 58,3% còn lại sinh viên tốt nghiệp không đúng hạn).

Tiêu chí 5.2, Thông tư số 01 quy định: Tỷ lệ thôi học, được xác định bằng tỷ lệ người học chưa tốt nghiệp mà không tiếp tục theo học hằng năm, không cao hơn 10% và riêng đối với người học năm đầu không cao hơn 15%.

Chia sẻ về nguyên nhân khiến tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn thấp và một số sinh viên tốt nghiệp không đúng hạn, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết: “Nhà trường triển khai đào tạo theo hình thức đào tạo tín chỉ, sinh viên chủ động đăng ký học tập theo lộ trình phù hợp năng lực và kế hoạch của cá nhân. Theo đó, có các trường hợp sinh viên sẽ học và tốt nghiệp sớm tiến độ, đúng tiến độ và các trường hợp sinh viên kéo dài lộ trình học tập nhằm đảm bảo đạt được chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo.

Chương trình đào tạo của trường luôn được cập nhật theo yêu cầu của thị trường lao động và nhu cầu xã hội, có sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp trong suốt quá trình đào tạo thông qua các chương trình kiến tập (năm nhất), thực tập, học tại doanh nghiệp (năm hai, năm ba) và tập sự nghề nghiệp (năm cuối).

Để giúp người học tiếp cận cơ hội việc làm đúng chuyên môn sau tốt nghiệp, nhà trường có nhiều hoạt động kết nối với doanh nghiệp.

Một là, kết nối và ký kết hợp tác với mạng lưới gần 1000 doanh nghiệp cấp trường và cấp khoa. Nhờ vào mạng lưới doanh nghiệp rộng lớn này, sinh viên các Khoa dễ dàng tìm được doanh nghiệp uy tín và đúng với chuyên ngành đào tạo để thực tập và làm việc.

Hai là, nhà trường và các khoa thường xuyên tổ chức Ngày hội tuyển dụng và kết nối doanh nghiệp/Ngày hội doanh nghiệp, Ngày hội doanh nghiệp cựu sinh viên với sự đồng hành của các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực”.

Nguồn thu từ khoa học và công nghệ năm 2024 sụt giảm

Theo Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT, số lượng công bố khoa học và công nghệ tính bình quân trên một giảng viên toàn thời gian không thấp hơn 0,3 bài/năm; riêng đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ không phải trường đào tạo ngành đặc thù không thấp hơn 0,6 bài/năm trong đó số bài có trong danh mục Web of Science hoặc Scopus (có tính trọng số theo lĩnh vực) không thấp hơn 0,3 bài/năm.

Theo bảng các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ, số công bố khoa học/giảng viên của Trường Đại học Tôn Đức Thắng là 0,95 bài/năm; số công bố WoS, Scopus/ giảng viên là 1,1 bài/năm.

Nhà trường có tổng 147 đề tài nghiên cứu khoa học. Trong đó có 11 đề tài cấp bộ, tỉnh; 70 đề tài cấp cơ sở; 63 đề tài hợp tác doanh nghiệp (trong nước) và 3 đề tài hợp tác quốc tế.

Ngoài ra, trường có 86 bài báo khoa học được Hội đồng Giáo sư nhà nước công nhận không nằm trong danh mục WoS, Scopus và bằng độc quyền giải pháp hữu ích, tăng 66 bài so với năm 2023. Tổng số công bố WoS, Scopus ở tất cả các lĩnh vực là 591 bài báo; 7 sách chuyên khảo, tác phẩm nghệ thuật và thành tích thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế.

Chia sẻ về kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng và số lượng đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho hay, nhà trường có chính sách khuyến khích giảng viên/nghiên cứu viên chủ động tìm kiếm các đề tài do quỹ nghiên cứu, doanh nghiệp/tổ chức quốc tế tài trợ. Thông qua mạng lưới học thuật, nghề nghiệp ở các khoa chuyên môn và viện nghiên cứu, giảng viên/nghiên cứu viên tìm kiếm các chương trình, dự án nghiên cứu quốc tế. Các đề tài hợp tác quốc tế tập trung các hướng nghiên cứu mà Trường Đại học Tôn Đức Thắng có thế mạnh và phù hợp với các hướng nghiên cứu ưu tiên theo tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Về kết quả tài chính, Báo cáo thường niên năm 2024 cho thấy tổng thu hoạt động của nhà trường là 1.224,18 tỷ đồng; tỷ trọng thu từ khoa học công nghệ năm 2024 của nhà trường đạt mức 5,7%. Tuy nhiên, chiếm phần lớn trong tổng nguồn thu hoạt động là nguồn thu từ học phí với 1.072,49 tỷ đồng còn nguồn thu từ khoa học và công nghệ đạt 44,84 tỷ đồng; giảm 8,38 tỷ đồng so với năm 2023 và chỉ chiếm 3,6% tổng nguồn thu năm 2024.

tai-chinh-ton-duc-thang.png
Nguồn thu từ học phí, lệ phí từ người học chiếm tới 87,6% trên tổng thu hoạt động của Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Ảnh chụp màn hình.

Về sự chênh lệch lớn giữa nguồn thu từ học phí và nguồn thu từ khoa học công nghệ, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho hay: “Trong thời gian qua, nhà trường đã nỗ lực đa dạng hóa nguồn thu, song tỷ trọng nguồn thu từ khoa học công nghệ so với các nguồn khác vẫn còn chưa cao và cũng là thực tế chung của nhiều cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam.

Hưởng ứng Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 của Chính phủ về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; vừa qua, trường đã có nhiều hoạt động nhằm đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng thực chất và bền vững.

Cụ thể, Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã thành lập 9 nhóm nghiên cứu mạnh; thành lập Văn phòng Viện Công nghệ Tiên tiến tại Hà Nội; thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo và Chuyển giao Khoa học công nghệ (đầu mối tổ chức, thúc đẩy và điều phối các hoạt động liên quan đến nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ, kết nối chuyên gia - doanh nghiệp, chuyển giao tri thức, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và hình thành các sản phẩm khoa học - công nghệ phục vụ cộng đồng).

Đây là bước đi chiến lược tiếp theo nhằm đưa Trường Đại học Tôn Đức Thắng trở thành đại học nghiên cứu có năng lực cạnh tranh toàn cầu, đồng thời góp phần thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam; gia tăng giá trị đóng góp của trường đối với sự phát triển bền vững của quốc gia, khu vực và quốc tế”.

An Vy