Trong quá trình thảo luận sửa đổi Luật Giáo dục đại học, đề xuất “bỏ mô hình đại học vùng” được nêu ra với lý do chồng chéo, kém hiệu quả và không còn phù hợp với bối cảnh mới.
Tuy nhiên, nếu nhìn đúng bản chất của thiết chế này, có thể thấy đây không phải là câu chuyện “giữ hay bỏ”, mà là vấn đề hiểu thấu để tái cấu trúc cho hiệu quả hơn – nhằm bảo tồn và phát huy một công cụ chính sách chiến lược của Nhà nước trong phát triển giáo dục đại học.
Không nên “đơn giản hóa” một thiết chế chiến lược
Từ đầu thập niên 1990, khi các đại học quốc gia và đại học vùng được thành lập, đó không chỉ là một bước sắp xếp tổ chức, mà là quyết định mang tầm chiến lược quốc gia về phát triển khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Mô hình này được kỳ vọng hình thành các trung tâm học thuật đa ngành, có khả năng liên kết và điều phối phát triển vùng lãnh thổ, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ đào tạo – nghiên cứu tầm quốc gia, tránh tình trạng các trường đại học phát triển rời rạc, manh mún và trùng lặp nguồn lực.
Hơn ba thập niên qua, dù trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, các đại học quốc gia và đại học vùng vẫn giữ vai trò đầu tàu của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam – là nơi quy tụ đội ngũ học giả mạnh, có chương trình đào tạo đa lĩnh vực, hợp tác quốc tế sâu rộng và nhiều công trình khoa học có giá trị. Đây cũng là những đơn vị tiên phong trong đổi mới quản trị đại học, tự chủ học thuật và chuyển giao công nghệ.
Tuy vậy, nhìn ở tầm vĩ mô, sự phát triển của mô hình này vẫn chưa tương xứng với kì vọng ban đầu. Vấn đề không nằm ở bản thân mô hình – vốn được thiết kế đúng hướng – mà chủ yếu ở cơ chế vận hành, phân quyền và phân bổ nguồn lực chưa tương thích với sứ mệnh mà Nhà nước đã giao. Thiếu cơ chế đặc thù về tài chính, tổ chức và chính sách nhân lực khiến nhiều đại học vùng bị “hành chính hóa”, không thể phát huy trọn vẹn vai trò là trung tâm điều phối tri thức và phát triển vùng.
Bản chất của mô hình đại học vùng đã bị hiểu sai
Cần khẳng định rõ: đại học vùng không phải là một “cấp trung gian hành chính”, mà là thiết chế học thuật – điều phối phát triển vùng. Trong cấu trúc đó, đại học quốc gia hướng đến thực hiện các nhiệm vụ chiến lược quốc gia như nghiên cứu cơ bản, phát triển công nghệ mũi nhọn và hội nhập quốc tế; còn đại học vùng giữ vai trò kết nối và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho từng vùng lãnh thổ, gắn đào tạo và nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của địa phương và doanh nghiệp.
Việc đại học vùng chưa phát huy được vai trò thời gian qua bắt nguồn chủ yếu từ thiếu quyền thực chất: chưa được phân bổ ngân sách theo nhiệm vụ; chưa có cơ chế đặt hàng rõ ràng từ Trung ương và chính quyền địa phương; chưa có hành lang pháp lí đủ mạnh cho tự chủ và trách nhiệm giải trình.
Hệ quả là mô hình này đôi khi bị “hành chính hóa” – tồn tại trong thế “nửa cấp trên, nửa cấp dưới”, khó phát huy đúng bản chất điều phối và sáng tạo. Ở một số nơi, mô hình thậm chí bị vận hành lệch hướng: thay vì phân bổ nguồn lực để tạo sức mạnh chung, lại trở thành cơ chế “trích thu” từ các trường thành viên. Đây là nghịch lí lớn nhất, khiến một thiết chế vốn được sinh ra để dẫn dắt, lại bị bó hẹp trong khuôn khổ quản lí nội bộ.
Nếu bỏ đại học vùng lúc này, hệ lụy sẽ rất lớn
Thứ nhất, việc tách các trường thành viên sẽ vô tình làm tăng thêm đầu mối quản lí – đi ngược tinh thần tinh gọn và hiệu quả. Khi mỗi trường trở thành một đơn vị độc lập trực thuộc Bộ hoặc địa phương, hệ thống quản lý sẽ phình to, chi phí hành chính tăng, nguồn lực đầu tư bị chia nhỏ. Hệ quả là quá trình thực thi Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về “tập trung đầu mối, đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả hệ thống giáo dục” sẽ bị chậm lại, thậm chí phân tán.
Thứ hai, nếu bỏ đại học vùng, chúng ta sẽ đánh mất một công cụ điều phối vùng vốn được hoạch định sau cân nhắc kĩ lưỡng nhằm phục vụ phát triển bền vững. Các vùng như miền Trung, Tây Nguyên, Tây Bắc… cần một đầu mối học thuật có năng lực liên kết nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ, để chuyển hóa các định hướng chiến lược quốc gia thành giải pháp cụ thể phù hợp đặc thù vùng. Thiếu đi đầu mối đó, mọi hoạt động hợp tác sẽ dễ phân mảnh: chương trình đào tạo thiếu kết nối với nhu cầu địa phương, nghiên cứu không gắn với chuyển giao và ứng dụng, nguồn lực khoa học lan man chứ không tập trung thành sức mạnh vùng. Kết quả là hiệu quả phát triển vùng giảm, đi ngược xu hướng hợp tác liên vùng và huy động nguồn lực vì mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ ba, việc giải thể không thể giải quyết căn nguyên của những hạn chế, bởi gốc rễ vấn đề không nằm ở mô hình tổ chức mà ở cơ chế quyền lực và tài chính. Khi quyền lực phân tán, trách nhiệm mờ nhạt, và cơ chế phân bổ ngân sách chưa dựa trên nhiệm vụ chiến lược, mọi thay đổi về hình thức chỉ là “đổi vỏ mà không đổi ruột”. Dù có đổi tên hay sắp xếp lại, nếu vẫn giữ tư duy cũ – xem tự chủ là “tự lo”, cạnh tranh tuyển sinh như một cuộc giành giật nguồn lực thay vì phát triển chất lượng – thì hệ thống khó có thể chuyển mình. Cải cách thực chất phải bắt đầu từ đổi mới cơ chế phân quyền, phân cấp và bảo đảm tài chính theo nhiệm vụ, chứ không phải từ việc thay đổi hình thức tổ chức.
Thứ tư, việc sắp xếp lại đại học vùng theo hướng xóa bỏ các trường thành viên cũng kéo theo nhiều hệ lụy không nhỏ. Bởi lẽ, mỗi trường thành viên đều có pháp nhân độc lập, truyền thống học thuật, văn hóa tổ chức và bản sắc riêng – được hình thành qua hàng chục năm phát triển. Đó không chỉ là những “đơn vị hành chính” trong một hệ thống, mà là những cộng đồng học thuật ổn định, đang thực hiện sứ mệnh đào tạo và nghiên cứu gắn với từng lĩnh vực, từng vùng miền.
Nếu “xóa sổ” các thực thể này để hợp nhất cơ học, hệ thống sẽ rơi vào giai đoạn rối loạn: chiến lược phát triển bị đứt gãy, động lực nội sinh suy giảm, và nguồn lực con người bị xáo trộn. Thay vì tạo nên sức mạnh tổng hợp, việc này có thể làm mất đi chính những giá trị đã được tích lũy qua thời gian – điều mà bất kì cải cách nào cũng cần thận trọng.
Giải pháp: tái thiết chế, không phải giải thể
Để phát huy đúng vai trò của các đại học quốc gia và đại học vùng trong giai đoạn mới, cần một cách tiếp cận tái thiết chế có hệ thống – dựa trên nguyên tắc tái cơ cấu – phân loại – phân quyền hợp lí, thay vì cải tổ cơ học hay giải thể hình thức.
Thứ nhất, phát triển bốn đại học trọng điểm gồm Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng và Đại học Bách khoa Hà Nội theo tinh thần Thông báo Kết luận 45 của Ban Chỉ đạo Trung ương, trở thành bốn đại học quốc gia thực thụ. Các đại học này cần được giao ngân sách cấp 1, có quyền tự chủ toàn diện, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Chính phủ trong các lĩnh vực chiến lược như khoa học cơ bản, khoa học giáo dục, công nghệ mũi nhọn và kỹ thuật then chốt. Đây sẽ là những trung tâm học thuật đầu tàu, dẫn dắt đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Thứ hai, giữ vững và định hình lại các đại học vùng (đang có và quy hoạch) như trung tâm điều phối phát triển vùng, kết nối chặt chẽ giữa chiến lược quốc gia và nhu cầu phát triển địa phương. Nhà nước – cả trung ương lẫn địa phương – cần thiết lập cơ chế đặt hàng bắt buộc từ nguồn lực thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị và các chương trình liên quan, tập trung vào nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho vùng. Đồng thời, cần trao quyền phân bổ ngân sách theo nhiệm vụ, đánh giá hiệu quả theo sản phẩm đầu ra thay vì theo đầu mối hành chính.
Thứ ba, phân loại rõ các cơ sở giáo dục đại học còn lại để bảo đảm tính minh bạch trong cơ chế hoạt động. Những trường đa ngành hoặc chuyên ngành độc lập không thuộc nhóm trên cần vận hành theo mô hình tự chủ có trách nhiệm, gắn với nhu cầu thị trường lao động, năng lực tài chính và hiệu quả đào tạo. Các trường này không nên hưởng cơ chế đặc thù dành cho đại học quốc gia hoặc đại học vùng, mà cần cạnh tranh bằng chất lượng, uy tín và năng lực đổi mới.
Cần đổi mới thể chế quản trị đi cùng tái cơ cấu
Một mô hình dù được thiết kế hoàn hảo đến đâu cũng sẽ thất bại nếu cơ chế vận hành vẫn mang tư duy cũ. Muốn tái thiết chế thật sự hiệu quả, phải chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị theo nhiệm vụ – nơi ngân sách công được phân bổ dựa trên mục tiêu, kết quả và trách nhiệm cụ thể, chứ không phải theo “đầu mối” hay “chỉ tiêu”.
Các đại học quốc gia và đại học vùng cần được trao quyền tự chủ thực chất, từ quyền nhân sự, tổ chức, hợp tác quốc tế đến quyền phân bổ ngân sách nội bộ. Tự chủ ở đây không chỉ là “được tự quyết”, mà là được giao quyền gắn liền với trách nhiệm giải trình rõ ràng.
Song song, Nhà nước cần thiết lập hệ thống đánh giá trách nhiệm (accountability) với các chỉ số định lượng cụ thể: hiệu quả sử dụng đầu tư công, năng suất khoa học, mức độ đóng góp vào phát triển vùng và chuyển giao tri thức. Khi quyền hạn và trách nhiệm được xác lập rành mạch, khi nguồn lực tài chính gắn chặt với nhiệm vụ và kết quả, đại học vùng sẽ không còn là một cấp trung gian hành chính, mà trở thành trung tâm học thuật – đổi mới – điều phối tri thức cho sự phát triển bền vững của từng vùng lãnh thổ.
Câu chuyện “bỏ hay không bỏ” đại học vùng thực chất phản ánh cách chúng ta nhìn nhận giáo dục đại học: như một bộ phận hành chính trong hệ thống quản lý, hay như một hạ tầng chiến lược quốc gia phục vụ phát triển tri thức và con người.
Nếu coi giáo dục là đầu tư cho tương lai đất nước, thì không thể tiếp cận theo lối “tinh gọn cơ học” hay sắp xếp hình thức. Điều cần là hiểu đúng, vận hành đúng và trao quyền đúng – để các thiết chế này phát huy vai trò của mình như những trung tâm học thuật, đổi mới và kết nối vùng.
Khi được trao quyền tương xứng, giao nhiệm vụ rõ ràng, đầu tư đủ mạnh và giám sát minh bạch, các đại học quốc gia và đại học vùng sẽ không chỉ là đầu tàu học thuật, mà còn là động lực phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và hội nhập tri thức.
Đó cũng là cách hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị – phát triển giáo dục đại học như nền tảng tri thức cho quốc gia độc lập, tự cường và phát triển bền vững.
