Thầy Lô Đức Chung (sinh năm 1981) hiện là giáo viên Trường Tiểu học Tân Trường, xã Trường Lâm, tỉnh Thanh Hóa. Với hơn 23 năm gắn bó trong sự nghiệp trồng người, thầy đã nhiều lần tình nguyện nhận nhiệm vụ đến các điểm trường lẻ xa trung tâm.
Trong suốt chặng đường ấy, khoảng thời gian dài bám bản và công tác tại điểm trường Đồng Lách - một bản vùng cao của người Thái ở xã Trường Lâm là quãng đời khiến thầy nhớ mãi, chất chứa nhiều kỷ niệm và cảm xúc nhất.
Ngoài công tác chuyên môn, thầy Chung còn đảm nhiệm vai trò Bí thư Chi đoàn Trường Tiểu học Tân Trường từ năm 2009 đến nay. Chính vai trò này đã giúp thầy luôn giữ được tinh thần năng động, nhiệt huyết và cống hiến hết mình cho tập thể cũng như công tác Đoàn - Đội trong nhà trường.
Người thầy giáo “hành quân” gieo chữ cho học trò vùng cao
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Lô Đức Chung cho biết hành trình đến với nghề giáo bắt đầu từ tháng 11 năm 2001, khi thầy quyết định xin dạy hợp đồng và xung phong lên điểm trường lẻ Đồng Lách.
Đến tháng 12 năm 2002, thầy chính thức được tuyển dụng vào biên chế và kể từ đó tận hiến trọn vẹn sự nghiệp tại Trường Tiểu học Tân Trường, nơi thầy đã chứng kiến biết bao đổi thay theo năm tháng.
“Việc trở thành nhà giáo đến với tôi như một cơ duyên sâu sắc của cuộc đời. Thuở nhỏ, tôi luôn mơ được khoác lên mình màu xanh áo lính, được đứng trong hàng ngũ quân đội. Thế nhưng, một tai nạn bất ngờ ở chân ập tới vào cuối năm lớp 12 đã khiến tôi buộc phải tạm gác lại ước mơ ấy.
Ngành Sư phạm trở thành lựa chọn thứ hai nhưng đồng thời đó cũng là lựa chọn của trái tim. Tôi mang trong mình một khát vọng giản dị mà mãnh liệt là được trở về quê hương, mang con chữ đến với những trẻ em người dân tộc Thái, với bản Đồng Lách.
Đến hôm nay, tôi có thể khẳng định rằng nghề giáo không chỉ là công việc, mà đã trở thành lẽ sống, là sứ mệnh mà tôi nguyện dành trọn cuộc đời để theo đuổi. Công việc ấy đã cho tôi cơ hội thực hiện điều thiêng liêng nhất của một người con lớn lên từ vùng đất khó là dùng tri thức để góp phần thay đổi cuộc đời của đồng bào mình”, thầy Chung bày tỏ.
Điểm trường Đồng Lách nằm cách trung tâm Trường Tiểu học Tân Trường gần chục cây số và cách nhà thầy Chung khoảng 5km. Con đường vào bản là một hành trình đầy thử thách, đất đá gập ghềnh, dốc cao, quanh năm nắng bụi mưa lầy.
Thời điểm đó, ở nơi ấy, bà con dân tộc Thái còn nhiều khó khăn, cuộc sống mưu sinh vất vả. Trẻ em đến lớp với đôi dép nhựa đã mòn quai, chiếc cặp cũ sờn góc nhưng ánh mắt các em vẫn ánh lên niềm khát khao được học chữ. Hình ảnh ấy khiến người thầy vùng cao vừa thương, vừa trăn trở, bởi thầy hiểu rằng trách nhiệm của người gieo chữ nơi đây không chỉ là dạy kiến thức, mà còn là gieo niềm tin và ươm mầm ước mơ cho những đứa trẻ của bản làng.
“Hoàn cảnh gia đình tôi khi ấy cũng không mấy khá giả. Là một giáo viên vùng khó, tôi phải tằn tiện để lo cho con cái, cha mẹ già và gắng gượng vượt dốc đến lớp. Mỗi sáng thứ Hai, tôi lại khoác lên mình chiếc ba lô chứa gạo và ít đồ ăn đủ dùng cho cả tuần, thực hiện một “chuyến hành quân” đến lớp; đến chiều thứ Sáu mới trở về nhà.
Nhiều năm liên tục, tôi sống trong cảnh xa gia đình, thiếu thốn vật chất. Giờ nhìn lại, tôi hiểu rằng chỉ có lý tưởng cống hiến mới giúp mình vượt qua những gian khổ ấy một cách tự nhiên và vô tư đến vậy.
Khoảng đầu những năm 2000, điểm trường Đồng Lách thật sự rất khó khăn với ba gian lớp học chỉ dựng tạm bằng gỗ, lợp mái lá, tường ván hở thấu thiên; bàn ghế của học sinh là những mảnh ván ghép thô sơ. Chúng tôi dạy trong cái lạnh thấu xương của mùa đông, gió lùa qua từng khe vách. Hơn nữa, trình độ dân trí của bà con nơi đây khi đó còn thấp, việc học của con trẻ gần như phụ thuộc hoàn toàn vào sự kiên trì của giáo viên.
Tuy nhiên, từ năm học 2006-2007, nhờ các dự án thuộc Chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa), điểm trường được xây mới, giúp học sinh có môi trường học tập kiên cố, ấm áp hơn. Đó là niềm hạnh phúc vô bờ của những người thầy vùng cao như chúng tôi.
Dù trải qua bao khó khăn, chưa bao giờ tôi nghĩ đến việc từ bỏ. Bởi tôi hiểu rằng, niềm vui lớn nhất của một người thầy không nằm ở sự đủ đầy vật chất, mà là khi thấy học trò của mình biết đọc, biết viết, biết mơ ước và dám mơ ước”, thầy Chung bồi hồi nhớ lại.
Những trăn trở của người thầy vùng cao
Theo thầy Lô Đức Chung, bức tranh giáo dục vùng cao hiện nay có thể nhìn thấy rõ hai mảng màu đối lập. Màu sáng là sự đổi thay tích cực: nhờ sự đầu tư của Nhà nước, những ngôi trường tranh tre nứa đã dần biến mất, thay vào đó là cơ sở vật chất khang trang, kiên cố. Chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên cũng ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi mới giáo dục.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại “mảng tối” - những thách thức lớn mà giáo dục vùng cao phải đối mặt. Về kinh tế và văn hóa, đa phần học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn. Nhiều phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc học, khiến tỷ lệ chuyên cần thấp và tình trạng học sinh bỏ học vẫn là niềm trăn trở của giáo viên.
Ngoài ra, rào cản ngôn ngữ cũng là một vấn đề không nhỏ khi nhiều em chưa thành thạo tiếng phổ thông, dẫn đến khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và giao tiếp trên lớp. Trong bối cảnh đó, người thầy vùng cao không chỉ là người dạy chữ mà còn phải làm công tác xã hội, vận động, thuyết phục phụ huynh để các em được đến trường. Các thầy, cô giáo phải trở thành cầu nối văn hóa, vừa giúp học sinh giữ gìn bản sắc dân tộc, vừa mở rộng cánh cửa tri thức hiện đại.
Bản thân là người dân tộc Thái nên thầy Chung ý thức rằng “sứ mệnh” của mình trở nên sâu sắc hơn gấp bội. Thầy thấu hiểu tận cùng những khó khăn về tập quán, kinh tế và ngôn ngữ mà con em đồng bào đang gặp phải. Chính vì vậy, với thầy, công việc giảng dạy không chỉ đơn thuần là truyền đạt con chữ, mà còn là hành trình trở thành tấm gương, người dẫn đường giúp chính đồng bào mình tìm thấy con đường tri thức.
Khi mới vào nghề, thầy Lô Đức Chung đã chuẩn bị sẵn tâm lý để đối mặt với những thiếu thốn về vật chất. Thế nhưng, trở ngại lớn nhất đối với thầy lại nằm ở khía cạnh cảm xúc và sư phạm, làm sao để một thầy giáo trẻ có thể thấu hiểu, dẫn dắt những tâm hồn non nớt của học sinh tiểu học. Đó là một áp lực vô hình mà không dễ ai vượt qua ngay từ những ngày đầu đứng lớp.
Bằng lòng nhiệt thành và sự chủ động học hỏi thực tế, thầy Chung đã cố gắng biến những kiến thức lý thuyết khô khan thành kinh nghiệm sống động qua từng bài giảng. Chính khi đứng trước học trò, đối diện với ánh mắt ngây thơ và khát khao học hỏi của các em, thầy nhận ra mọi rào cản đều có thể tan chảy bằng tình yêu thương.
“Tôi luôn nỗ lực hết mình để thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa miền núi và đồng bằng, để mỗi đứa trẻ vùng cao đều có cơ hội học tập và trưởng thành như bao em nhỏ khác. Việc được giảng dạy ngay tại quê hương cũng giúp tôi hiểu sâu hơn tâm lý và văn hóa địa phương, từ đó dễ dàng kết nối với học sinh và phụ huynh. Tôi tâm niệm rằng, nếu người thầy không mang đến niềm tin và cảm hứng cho học trò thì trách nhiệm gieo chữ nơi vùng cao vẫn chưa thể trọn vẹn.
Với tôi, tình yêu thương vô điều kiện chính là chìa khóa mở ra mọi cánh cửa, giúp người giáo viên trẻ năm nào vượt qua những bỡ ngỡ để gắn bó suốt hơn hai thập kỷ với nghề”, thầy Chung cho hay.
Chia sẻ về việc cân bằng giữa công việc và cuộc sống gia đình, thầy Lô Đức Chung thẳng thắn cho rằng, việc cân bằng là một sự đánh đổi lớn. Theo thầy, yếu tố quan trọng nhất giúp duy trì sự nghiệp chính là sự thấu hiểu và sẻ chia lớn lao từ người vợ - người đã âm thầm gánh vác việc nhà, chăm sóc con cái để thầy yên tâm cống hiến cho học trò và mái trường vùng cao.
Ngoài ra, để giữ được sự cân bằng, thầy Chung luôn tự đặt ra cho mình ba nguyên tắc: chất lượng hơn số lượng - thầy dành trọn vẹn những ngày cuối tuần cho gia đình, không chỉ là hiện diện mà còn thực sự tham gia vào các hoạt động chung; ứng dụng công nghệ - dù ở điểm trường xa, thầy vẫn duy trì liên lạc thường xuyên qua điện thoại để nắm bắt tình hình và sẻ chia cùng người thân; và tạo niềm tự hào - bởi khi vợ con hiểu và cảm nhận được ý nghĩa công việc thầy đang làm, đó cũng chính là niềm hạnh phúc và là cách cân bằng tinh thần tốt nhất. Với thầy Lô Đức Chung, gia đình là nguồn năng lượng vô tận, tiếp sức cho thầy tiếp tục thực hiện sứ mệnh gieo chữ nơi vùng cao.
Gửi lời nhắn nhủ đến các em học sinh, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, thầy Chung chân thành bày tỏ: “Tri thức là tài sản lớn nhất mà không ai có thể lấy đi. Học tập chính là con đường ngắn nhất, bền vững nhất để thay đổi số phận và mang lại vinh quang cho gia đình, bản làng. Các em học sinh hãy luôn tự hào về văn hóa và tiếng nói dân tộc của mình nhưng đồng thời cũng phải chinh phục tri thức hiện đại, thành thạo tiếng phổ thông để vươn ra thế giới. Các em hãy dám mơ ước và nỗ lực hết mình!
Bên cạnh đó, với đồng nghiệp, những người thầy, cô giáo vùng cao, hãy giữ vững ngọn lửa nhiệt huyết bởi chúng ta đang thực hiện một công việc vô cùng cao cả. Hãy lấy tình yêu thương và sự kiên trì làm kim chỉ nam, đừng nản lòng trước khó khăn vật chất”.
Một số thành tích thầy Lô Đức Chung đã gặt hái trong hơn 23 năm gắn bó với giáo dục:
1. Giấy khen Bí thư chi đoàn Trường Tiểu học Tân Trường vì “Đạt thành tích xuất sắc trong công tác Đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi” năm 2012, năm 2019 và năm 2024 do Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện Tĩnh Gia (cũ) cấp.
2. Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục năm 2019.
3. Giấy chứng nhận “Giáo viên dạy giỏi cấp thị xã” do Trưởng phòng Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Nghi Sơn (cũ) cấp năm 2022.
4. Giấy khen “Đã có thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng Đảng” năm 2020 và năm 2022 do Ban Chấp hành Đảng bộ xã Tân Trường (cũ) cấp.
5. Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở năm 2023.