Sắp xếp cơ sở giáo dục cần bình đẳng, tránh tâm lý “công lập là trụ cột, tư thục là bổ trợ”

20/11/2025 06:20
An Vy

GDVN - Theo ĐBQH Việt Nga, việc sắp xếp lại các CSGD phải được thực hiện bình đẳng giữa công lập và tư thục, dựa trên hiệu quả hoạt động và đóng góp cho xã hội.

Phát biểu tại Hội nghị học tập, quán triệt và triển khai Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh rằng việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục trong toàn hệ thống từ giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp đến giáo dục phổ thông là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo.

Bộ trưởng cho biết, những cơ sở giáo dục còn manh mún, quy mô nhỏ, gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh hoặc không bảo đảm chất lượng đào tạo, bất kể là công lập hay tư thục sẽ được xem xét ưu tiên trong quá trình rà soát, sắp xếp lại hệ thống.

Theo các chuyên gia giáo dục và đại biểu Quốc hội, đây được xem là bước đi cần thiết nhằm tinh gọn mạng lưới, tập trung nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền giáo dục quốc gia. Tuy nhiên, cần có lộ trình thực hiện phù hợp, dựa trên đánh giá toàn diện về điều kiện thực tế của từng địa phương và từng loại hình cơ sở giáo dục, đặc biệt đối với các trường tư nhằm tránh việc sắp xếp mang tính cơ học hoặc hành chính thuần túy.

Sắp xếp bình đẳng, tránh tâm lý “công lập là trụ cột, tư thục là bổ trợ”

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, chuyên gia giáo dục, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống cho biết, chủ trương sắp xếp lại các cơ sở giáo dục có quy mô nhỏ, manh mún, chất lượng thấp, không phân biệt công lập hay tư thục là hoàn toàn đúng đắn.

Đây là bước đi cần thiết để tinh gọn hệ thống, tập trung nguồn lực, nâng cao chất lượng đào tạo và đặc biệt là tái cấu trúc mạng lưới giáo dục theo hướng tinh, mạnh, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, để chủ trương này phát huy tối đa hiệu quả, cần có cái nhìn toàn diện và linh hoạt hơn trong việc xác định tiêu chí sắp xếp. Theo đó, quy mô không phải là yếu tố duy nhất quyết định chất lượng.

Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở giáo dục tuy nhỏ nhưng tinh gọn, năng động, quản trị hiện đại, gắn liền với nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội đang trở thành mô hình đáng học hỏi. Ngược lại, một số cơ sở quy mô lớn nhưng thiếu định hướng phát triển, đào tạo dàn trải, chưa thật sự tạo được giá trị gia tăng cho người học.

Do đó, việc sắp xếp nên dựa trên chất lượng đào tạo, năng lực tự chủ, hiệu quả quản trị và cam kết phát triển bền vững, thay vì chỉ nhìn vào quy mô hay số lượng sinh viên. Chủ trương này không nhằm “xóa bỏ” mà là để tái cấu trúc và làm mạnh hệ thống, giúp các cơ sở giáo dục phát huy được lợi thế, khắc phục điểm yếu và hướng tới một nền giáo dục có chất lượng thực chất, hội nhập và cạnh tranh quốc tế.

pgs-ts-nguyen-thien-tong.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống - chuyên gia giáo dục. Ảnh: NVCC.

Mặt khác, cần phân loại rõ các nhóm cơ sở giáo dục tư thục, bao gồm: nhóm hoạt động vì lợi nhuận, nhóm không vì lợi nhuận và nhóm có đóng góp đặc thù về ngành nghề hoặc vùng miền. Việc phân loại này là hết sức cần thiết để có cơ chế sắp xếp và quản lý phù hợp với bản chất, mục tiêu và vai trò của từng nhóm trường.

"Những trường tư hoạt động không vì lợi nhuận hoặc có đóng góp trong các lĩnh vực xã hội ít thu hút đầu tư như sư phạm, khoa học cơ bản, nông nghiệp… cần được khuyến khích, hỗ trợ về cơ chế, chính sách nhằm duy trì và phát triển bền vững.

Ngoài ra, nhóm trường định hướng nghiên cứu cũng cần được xem xét trong một khung chính sách riêng, bởi đây là lực lượng nòng cốt trong phát triển tri thức, đổi mới sáng tạo và nâng tầm vị thế học thuật của quốc gia. Việc sắp xếp hay tổ chức lại các cơ sở này không thể chỉ dựa trên tiêu chí quy mô hay số lượng tuyển sinh, mà phải căn cứ vào năng lực nghiên cứu, số lượng và chất lượng công bố khoa học, mức độ tham gia vào các đề tài quốc gia và quốc tế, cũng như đóng góp cho sự phát triển kinh tế, xã hội.

Các trường định hướng nghiên cứu thường có đặc thù chi phí đầu tư cao, thời gian đào tạo dài nên nếu áp dụng cùng một tiêu chí sắp xếp như các trường định hướng ứng dụng hay nghề nghiệp sẽ dẫn đến bất cập và làm triệt tiêu động lực phát triển khoa học - công nghệ.

Do đó, cần xây dựng cơ chế đánh giá và hỗ trợ riêng, khuyến khích các trường này liên kết với viện nghiên cứu, doanh nghiệp và các quỹ khoa học để phát huy thế mạnh chuyên sâu, góp phần hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong giáo dục đại học”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống cho hay.

Đồng quan điểm, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga - Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng đánh giá, chủ trương sắp xếp lại các cơ sở giáo dục bất kể công lập hay tư thục đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự quyết liệt của ngành trong việc hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW. Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng giữa các loại hình cơ sở giáo dục, đồng thời không tạo tâm lý bất an trong khối tư thục, cần quán triệt rõ hai nguyên tắc cốt lõi trong quá trình sắp xếp và tái cấu trúc hệ thống.

Thứ nhất, Nhà nước cần thống nhất quản lý về chất lượng và chuẩn đầu ra, nhưng không can thiệp hành chính vào mô hình sở hữu, đặc biệt đối với các trường tư. Việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục phải được thực hiện bình đẳng giữa công lập và tư thục, dựa trên tiêu chí chất lượng, hiệu quả hoạt động và đóng góp cho xã hội chứ không dựa vào nguồn vốn hay hình thức sở hữu.

Cần loại bỏ tâm lý “công lập là trụ cột, tư thục là bổ trợ” bởi tư duy này đi ngược với tinh thần Nghị quyết số 10-NQ/TW về Phát triển kinh tế tư nhân thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Thứ hai, quá trình sắp xếp cần có lộ trình rõ ràng, đánh giá tác động toàn diện và cơ chế bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người học, giảng viên và nhà đầu tư. Những cơ sở phải sáp nhập, hợp nhất hoặc chuyển đổi mô hình cần được hỗ trợ chuyển tiếp về pháp lý, đất đai, tín dụng và chính sách tài chính, để tránh gây “đổ vỡ dây chuyền” và mất ổn định trong hệ thống.

Đặc biệt, đối với các trường tư quy mô vừa và nhỏ nhưng hoạt động nghiêm túc, vẫn giữ tinh thần phụng sự giáo dục cần được tạo điều kiện để tái cấu trúc, củng cố năng lực thay vì bị loại bỏ.

Bởi lẽ, mục tiêu cuối cùng của việc sắp xếp không phải là “giảm số lượng” đơn thuần mà là xây dựng một hệ thống giáo dục đa dạng, minh bạch, vận hành hiệu quả và phát triển bền vững, trong đó mọi cơ sở đào tạo dù công hay tư đều có cơ hội đóng góp vào sự nghiệp phát triển tri thức quốc gia", bà Nga nhận định.

Giải pháp bảo đảm môi trường phát triển lành mạnh cho trường tư thục

Cũng theo Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga, Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị khẳng định yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân trong tiếp cận đất đai, tín dụng và nhân lực, coi đây là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm lĩnh vực giáo dục.

Trong khi đó, Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo lại đặt ra yêu cầu sắp xếp, tinh gọn mạng lưới cơ sở đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng toàn hệ thống.

dbqh-viet-nga.jpg
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga - Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng. Ảnh: quochoi.vn

“Thách thức lớn nhất đối với các cơ sở giáo dục đại học tư thục hiện nay chính là việc phải thực hiện song song hai nhiệm vụ tưởng chừng mâu thuẫn: một mặt phải mở rộng quy mô, đầu tư chiều sâu để phát triển; mặt khác lại đứng trước nguy cơ bị sắp xếp hoặc giải thể nếu chưa đáp ứng đủ tiêu chí về chất lượng và hiệu quả hoạt động. Điều này tạo ra áp lực lớn, nhất là trong bối cảnh phần lớn các trường tư thục còn non trẻ, nguồn lực tài chính hạn chế và chưa tiếp cận được các chính sách hỗ trợ tương xứng.

Thực tế cho thấy, khu vực tư thục hiện vẫn đang chịu nhiều rào cản mang tính thể chế và hành chính. Các trường khó tiếp cận quỹ đất để đầu tư cơ sở vật chất, hầu như không được hưởng các gói vay tín dụng ưu đãi như khối công lập, chính sách thuế chưa tạo động lực cho việc tái đầu tư vào nâng cấp hạ tầng và phát triển đội ngũ.

Để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 71 mà vẫn bảo đảm môi trường phát triển lành mạnh cho khu vực tư thục, tôi đề xuất 3 giải pháp sau:

Một là, cần phân loại rõ các nhóm cơ sở giáo dục tư thục. Việc phân loại này giúp thiết kế cơ chế sắp xếp, hỗ trợ và giám sát phù hợp, tránh áp dụng một mô hình quản lý cứng nhắc cho mọi loại hình.

Hai là, Nhà nước cần thực hiện đúng tinh thần “đối xử bình đẳng giữa công lập và tư thục” được quy định trong Luật Giáo dục, đặc biệt trong chính sách đất đai, đấu thầu sử dụng đất công và tiếp cận các nguồn vay ưu đãi. Sự bình đẳng này không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là điều kiện tiên quyết để thu hút các nhà đầu tư có tâm và có tầm tham gia vào lĩnh vực giáo dục.

Ba là, trong quá trình sắp xếp, cần có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư, bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất, thương hiệu và lợi ích hợp pháp của họ được đối xử minh bạch, công bằng và đúng quy định pháp luật. Chỉ khi đó, hệ thống giáo dục đại học mới có thể vừa tinh gọn, vừa thu hút được nguồn lực xã hội hóa, tạo ra cấu trúc phát triển cân bằng giữa công - tư và hướng tới tính bền vững lâu dài.

Mục tiêu cuối cùng vẫn là xây dựng một hệ thống giáo dục đại học phát triển hài hòa: tinh gọn nhưng không đồng loạt; quản lý thống nhất nhưng không hành chính hóa; phát triển tư nhân nhưng không thương mại hóa giáo dục. Đây là một hệ thống vừa vững về chất, vừa mở về tư duy, hướng tới giá trị nhân văn và tri thức bền vững”, bà Nga cho hay.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành 6 tiêu chuẩn đánh giá chuẩn cơ sở giáo dục đại học, bao gồm: Tổ chức và quản trị; Giảng viên; Cơ sở vật chất; Tài chính; Tuyển sinh và đào tạo; Nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.

Đây là bước đi cần thiết và kịp thời để hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống giáo dục đại học đạt chuẩn vào năm 2030, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng. Tuy nhiên, để khu vực tư thục có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn này mà vẫn giữ được tính năng động, linh hoạt vốn có, chính sách cần được thiết kế theo hướng “mềm” và khuyến khích.

Theo đó, Nhà nước cần thể hiện sự linh hoạt ở một số khía cạnh then chốt. Về quỹ đất, nên cho phép các trường tư thuê đất dài hạn với giá ưu đãi nếu cam kết sử dụng đúng mục đích giáo dục. Về tín dụng, cần thiết kế gói vay ưu đãi riêng cho các trường tư mở ngành chất lượng cao hoặc các ngành xã hội đang thiếu hụt nhân lực như y tế, điều dưỡng, giáo viên mầm non, công nghệ số,… nhằm khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào những lĩnh vực Nhà nước đang cần.

Về quy mô đào tạo, không nên cứng nhắc yêu cầu tất cả các trường phải mở rộng quy mô hay tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Thực tế cho thấy, nhiều trường quy mô nhỏ nhưng đào tạo chuyên sâu, gắn với nhu cầu địa phương và doanh nghiệp lại có hiệu quả thực chất hơn. Việc buộc họ mở rộng chỉ tiêu có thể làm mất bản sắc và giảm chất lượng đào tạo. Sự linh hoạt trong chính sách không đồng nghĩa với việc buông lỏng tiêu chuẩn, mà là tạo hành lang phát triển công bằng và khích lệ sáng tạo trong khu vực tư nhân giáo dục.

An Vy