Bộ Khoa học và Công nghệ công bố Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo về thông tin, thống kê, đánh giá, chuyển đổi số và các vấn đề chung để lấy ý kiến. Trong đó, có một số nội dung đáng chú ý về liêm chính khoa học.
Các chuyên gia đánh giá, những quy định trong Dự thảo Nghị định đã phần nào đầy đủ, tuy nhiên vẫn cần bổ sung. Đặc biệt, muốn đảm bảo liêm chính khoa học phải có thêm chế tài đủ sức răn đe cùng sự phối hợp từ nhiều phía.
Các vi phạm liêm chính khoa học ngày càng phức tạp
Chia sẻ về các vấn đề liên quan đến liêm chính khoa học ở Việt Nam, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Lộc - Thành viên Hội đồng Giáo sư ngành Sinh học năm 2025 cho hay: "Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến liêm chính khoa học, nhất là khi số lượng công bố quốc tế tăng mạnh trong những năm gần đây.
Vấn đề nổi cộm đầu tiên là các hình thức vi phạm ngày càng tinh vi. Hình thức vi phạm truyền thống như đạo văn, chỉnh sửa số liệu trở nên phức tạp hơn khi đi cùng sự phát triển của công nghệ và trí tuệ nhân tạo. Ngoài ra, có những mạng lưới, hệ thống liên kết từ tác giả, chuyên gia bình duyệt đến biên tập viên để gian lận.
Mặc dù đã có một số văn bản quy định về liêm chính khoa học, tuy nhiên các quy định này vẫn còn thiếu chi tiết, gây khó khăn trong việc nhận diện và xử lý triệt để. Việc thiếu cơ chế cập nhật và công khai các trường hợp vi phạm liêm chính khoa học cũng đã làm giảm tính răn đe và tạo ra một “vùng xám” trong giới khoa học".
Hiện các hành vi vi phạm liêm chính khoa học được nêu tại Khoản 1, Điều 6, Dự thảo Nghị định bao gồm: Ngụy tạo dữ liệu, kết quả nghiên cứu; Giả mạo dữ liệu; Đạo văn dưới mọi hình thức; Ghi tên tác giả không đúng thực tế hoặc loại bỏ tác giả có đóng góp thực sự; Cản trở, đe doạ, ép buộc, can thiệp vào quá trình đánh giá, phản biện, xét duyệt bản thảo công bố khoa học...
Đánh giá về nội dung này, thầy Lộc cho rằng, quy định đã bao quát các lỗi cơ bản, tuy nhiên còn một số lỗi chưa được đề cập như gian lận trong phản biện kín (ví dụ, chính tác giả phản biện bài của mình thông qua một tài khoản giả mạo) hoặc bịa đặt các viện nghiên cứu, trường đại học để tăng uy tín cho bài báo. Những hành vi này thường diễn ra trên các nền tảng quốc tế và khó kiểm soát.
Dự thảo Nghị định cũng chỉ rõ các hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ tại Khoản 2, Điều 6.
Trong đó, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Lộc chú ý đến 2 điểm khó giám sát xử lý là che giấu rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng (điểm a) và không công khai mối quan hệ tài chính, nguồn tài trợ nghiên cứu, các xung đột lợi ích có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập, kết quả nghiên cứu (điểm g).
Thầy Lộc phân tích: "Với hành vi che giấu rủi ro gây hậu quả nghiêm trọng, việc xác định ý đồ chủ quan là trở ngại lớn nhất. Người vi phạm có thể dễ dàng bao biện rằng họ không nhận thức được rủi ro hoặc rủi ro nằm ngoài khả năng dự đoán.
Hành vi che giấu thường chỉ được phơi bày khi hậu quả đã xảy ra. Điều này cũng gây khó khăn cho công tác giám sát phòng ngừa. Đồng thời, để đánh giá chính xác mức độ rủi ro đòi hỏi các chuyên gia phải có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực.
Bên cạnh đó, vẫn thiếu cơ chế tố giác hiệu quả, các nhà khoa học biết được sai phạm thường e ngại tố giác vì có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp, vị thế.
Còn với hành vi không công khai mối quan hệ tài chính và xung đột lợi ích. Các mối quan hệ tài chính, lợi ích thường là thỏa thuận riêng giữa nhà nghiên cứu và tổ chức tài trợ. Các cơ quan quản lý không dễ dàng tiếp cận những thông tin này để kiểm tra.
Xung đột không chỉ đơn thuần là tiền bạc mà còn có thể là danh tiếng, mối quan hệ cá nhân. Việc xác định và chứng minh những loại xung đột này rất phức tạp. Người vi phạm thường che giấu để bảo vệ uy tín và lợi ích, không tự nguyện công khai các mối quan hệ có khả năng làm mất đi tính khách quan của công trình.
Tóm lại, trong quá trình thực thi, việc xử lý các hành vi có tính chất ẩn khuất, chủ quan và khó định lượng như che giấu rủi ro và xung đột lợi ích sẽ gặp nhiều trở ngại hơn so với các hành vi vi phạm rõ ràng như đạo văn hay giả mạo dữ liệu".
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Lộc nêu thêm, vẫn có thể bổ sung thêm các hành vi vi phạm khác vào quy định. Ví dụ như hành động lạm dụng vai trò phản biện khoa học để trì hoãn, cản trở công bố của “đối thủ” hoặc sử dụng các tạp chí “rởm” (predatory journals) để xuất bản công trình nghiên cứu kém chất lượng, tạo thành tích ảo. Hành vi này nếu được chỉ rõ sẽ tăng tính răn đe.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Lộc - Thành viên Hội đồng Giáo sư ngành Sinh học năm 2025. Ảnh: NVCC.
Cùng nêu quan điểm về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Quang Á - Thư ký Hội đồng Giáo sư ngành Công nghệ thông tin năm 2025 nhấn mạnh đến vấn đề tác giả.
Thầy Á bày tỏ: "Nhằm đảm bảo tính liêm chính trong nghiên cứu khoa học, việc ghi nhận đóng góp của các tác giả cần được thực hiện một cách trung thực và minh bạch. Phải loại bỏ hiện tượng cá nhân được ghi tên trong bài báo khoa học nhưng thực tế không tham gia vào quá trình nghiên cứu.
Một số tạp chí khoa học uy tín trên thế giới đã áp dụng quy định yêu cầu ghi rõ đóng góp của từng tác giả với nghiên cứu. Mặc dù vậy, vấn đề đặt ra là tính chính xác của những kê khai này. Làm thế nào để đảm bảo rằng các thông tin được ghi nhận phản ánh đúng thực tế?
Hiện nay, việc xác minh đóng góp thực sự của tác giả vẫn là một thách thức, nhất là khi chỉ những người trong cùng lĩnh vực hoặc nhóm nghiên cứu mới có thể hiểu rõ mức độ tham gia của từng cá nhân".
Cần hệ thống giải pháp đồng bộ từ vĩ mô đến vi mô để ngăn ngừa vi phạm
Nhìn từ thực tế, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Lộc, các chế tài xử lý hiện có chưa đủ mạnh, chủ yếu dừng lại ở mức độ kỷ luật nội bộ hoặc thu hồi công trình, chưa có cơ chế công khai, minh bạch rộng rãi. Điều này làm giảm tính răn đe, nhất là khi các hành vi vi phạm thường mang lại lợi ích lớn về danh tiếng và kinh tế.
Để tăng cường đấu tranh và đảm bảo liêm chính khoa học, theo thầy Lộc cần có hệ thống giải pháp đồng bộ từ vĩ mô đến vi mô, bao gồm:
Tăng cường chế tài và công khai xử lý vi phạm, áp dụng chế tài nghiêm khắc hơn, ngoài kỷ luật, cần có các biện pháp tài chính như thu hồi kinh phí nghiên cứu, cắt tài trợ, thậm chí là xử lý hình sự đối với các hành vi gian lận nghiêm trọng.
Thiết lập cơ chế công khai, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về các trường hợp vi phạm đã được xử lý để các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu khác có thể tra cứu, tránh tuyển dụng hoặc thăng chức cho những người đã vi phạm.
Thay đổi cách thức đánh giá và xét duyệt, tập trung vào chất lượng thay vì số lượng, các tiêu chí xét duyệt chức danh, xét thi đua cần chú trọng vào chất lượng, tác động thực sự của công trình nghiên cứu, thay vì chỉ đếm số lượng bài báo quốc tế.
Đánh giá đa chiều, áp dụng hệ thống đánh giá ngang hàng (peer review) chặt chẽ và độc lập hơn, kết hợp với ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước.
Nâng cao nhận thức và giáo dục về liêm chính, đưa nội dung về liêm chính khoa học và đạo đức nghiên cứu vào chương trình đào tạo chính quy, chú trọng đến các chương trình sau đại học. Tổ chức các hội thảo, khóa đào tạo thường xuyên để cập nhật các quy định, hình thức gian lận mới.
Bên cạnh các quy định chung của Nhà nước, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Lộc cho rằng, các cơ sở giáo dục và viện nghiên cứu cần xây dựng các quy định chi tiết và cụ thể, phù hợp với đặc thù riêng. Cụ thể:
Mỗi đơn vị nên có bộ quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp riêng, liệt kê chi tiết các hành vi vi phạm và quy trình xử lý minh bạch.
Thành lập Hội đồng Đạo đức Khoa học độc lập gồm các chuyên gia uy tín để tiếp nhận, điều tra và xử lý các tố cáo về vi phạm liêm chính khoa học.
Xây dựng cơ chế báo cáo và bảo vệ người tố cáo, thiết lập kênh báo cáo an toàn và bí mật, đồng thời có chính sách bảo vệ những người dũng cảm lên tiếng trước các hành vi vi phạm.
Đồng thời, thầy Lộc nhấn mạnh, cốt lõi của việc đảm bảo liêm chính khoa học vẫn nằm ở ý thức và trách nhiệm của cá nhân.
"Mỗi nhà nghiên cứu phải tự coi liêm chính là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, đặt sự trung thực, khách quan và minh bạch lên hàng đầu, thượng tôn đạo đức nghề nghiệp. Chống lại áp lực về số lượng và danh tiếng, tập trung vào chất lượng, giá trị thực sự của nghiên cứu, không vì thành tích mà đánh đổi.
Tích cực tham gia vào việc xây dựng môi trường lành mạnh, đấu tranh với các hành vi sai trái trong giới khoa học, không bao che, không đồng lõa và sẵn sàng lên tiếng khi phát hiện vi phạm. Không ngừng học hỏi và trau dồi, cập nhật kiến thức về các quy tắc đạo đức, tiêu chuẩn công bố quốc tế để đảm bảo nghiên cứu của bản thân tuân thủ những nguyên tắc cao nhất" - vị Giáo sư bày tỏ.

Dưới góc nhìn của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Hải - Trưởng ban Ban Quản lý Khoa học của Học viện Tài chính, để xây dựng một môi trường nghiên cứu minh bạch và công bằng, ý thức cá nhân của nhà khoa học đóng vai trò then chốt. Các nhà nghiên cứu cần nhận thức rõ ràng về hành vi đúng, sai và tuân thủ nghiêm ngặt quy định về liêm chính khoa học.
Mỗi cơ sở nghiên cứu và trường đại học cũng cần có quy định riêng về liêm chính khoa học, phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực như kỹ thuật, kinh tế hay khoa học xã hội.
Đặc biệt, thầy Hải nhấn mạnh Điều 7 của Dự thảo Nghị định quy định cập nhật thông tin vi phạm liêm chính khoa học và đạo đức nghề nghiệp lên nền tảng số quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia là giải pháp hiệu quả.
Việc công khai các trường hợp vi phạm không chỉ đảm bảo tính minh bạch mà còn giúp nhà khoa học và người quản lý nắm rõ các hành vi vi phạm, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm. Ngoài ra, cũng cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và giám sát, yêu cầu nhà nghiên cứu giải trình rõ ràng để đảm bảo tính trung thực trong các công trình khoa học.
Trong vấn đề tố cáo hành vi vi phạm liêm chính khoa học, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Quang Á đưa ra thêm lưu ý, các cáo buộc vi phạm liêm chính phải dựa trên bằng chứng cụ thể, tránh gây tổn hại đến uy tín của nhà khoa học khi chưa có kết luận chính thức. Cộng đồng khoa học cần duy trì sự thận trọng trong việc đánh giá các cáo buộc vi phạm liêm chính, yêu cầu có bằng chứng rõ ràng.
Ví dụ, trong một số trường hợp, tác giả có thể vô tình không tham chiếu đúng nguồn thông tin do không nắm hết tài liệu hiện có, đặc biệt khi một số tài liệu không được công khai rộng rãi trên internet mà chỉ lưu hành nội bộ. Với những trường hợp như vậy, việc quy kết đạo văn hoặc thiếu trung thực cần được xem xét kỹ lưỡng, tránh vội vàng đưa ra kết luận.