Trong hơn ba thập kỷ xây dựng và phát triển, mô hình đại học vùng vẫn là chủ đề gây nhiều tranh luận trong giới quản lý giáo dục và chính sách. Câu hỏi “Nên giữ hay bỏ đại học vùng?” một lần nữa được đặt ra khi tại diễn đàn Quốc hội thời gian qua xuất hiện đề xuất chấm dứt mô hình này.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia giáo dục đại học, việc nhìn nhận lại đại học vùng không thể chỉ dừng ở góc độ hành chính. Sau hơn 30 năm, mô hình này đã đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, đặc biệt trong tiến trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Chính vì vậy, thay vì bỏ, điều cấp thiết hiện nay là tái thiết cấu trúc nội bộ, để đại học vùng thực sự trở thành các đại học đa lĩnh vực mạnh, đóng vai trò đầu tàu trong giáo dục đại học Việt Nam.
Việc xoá bỏ mô hình đại học vùng sẽ kéo theo hệ lụy
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thiện Tống - nguyên Chủ nhiệm sáng lập bộ môn Kỹ thuật hàng không (Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết, trong giai đoạn 1990 trở về trước, giáo dục đại học Việt Nam đi theo mô hình của Xô Viết: hệ thống trường đại học chủ yếu có quy mô nhỏ, đơn ngành, chú trọng giảng dạy hơn nghiên cứu.
Sau năm 1986, Việt Nam bước vào nền kinh tế nhiều thành phần. Mô hình đại học chuyên ngành trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với nhu cầu phát triển mới. Chính trong bối cảnh đó, Việt Nam bắt đầu xây dựng các đại học đa lĩnh vực, phù hợp xu hướng quốc tế và đáp ứng đòi hỏi đổi mới kinh tế - xã hội.
Đầu những năm 1990, cùng với 2 đại học quốc gia, 3 đại học vùng tại Thái Nguyên, Huế và Đà Nẵng chính thức ra đời, nhằm tập trung nguồn lực, tạo ra những trung tâm đào tạo và nghiên cứu lớn tại các vùng kinh tế trọng điểm, từ đó góp phần phát triển đồng đều giáo dục đại học giữa các vùng miền trên cả nước.
Đến nay, sau hơn 30 năm, 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng đã trở thành những cơ sở giáo dục hàng đầu, hiện diện trên nhiều bảng xếp hạng quốc tế và khu vực. Mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, định hướng nghiên cứu cũng đã trở nên phổ biến, phù hợp với xu thế quản trị giáo dục đại học hiện đại.
Phó Giáo sư Nguyễn Thiện Tống bày tỏ: “Tất nhiên, điều đó không có nghĩa mô hình đại học vùng không có hạn chế. Một số đơn vị tồn tại tầng nấc trung gian cồng kềnh, công tác quản trị - nhân sự chưa thực sự tinh gọn. Đây chính là lý do cần điều chỉnh, nhưng nếu có vấn đề, ta cần suy nghĩ sửa cách vận hành”.
Cũng theo Phó Giáo sư Nguyễn Thiện Tống, việc xoá bỏ mô hình đại học vùng sẽ kéo theo hệ lụy: gia tăng đầu mối, phân tán nguồn lực, điều này đi ngược lại tinh thần của Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh gọn bộ máy và đột phá trong phát triển giáo dục - đào tạo.
Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam hướng đến tự chủ, cạnh tranh quốc tế và xây dựng các đại học mạnh mang tầm khu vực, việc phân mảnh hệ thống sẽ tạo ra nhiều rủi ro hơn là lợi ích.
Phó Giáo sư Nguyễn Thiện Tống nhấn mạnh, việc điều chỉnh mô hình đại học vùng không chỉ là thay đổi cơ học về mặt hành chính, mà phải dựa trên tầm nhìn chiến lược, khả năng cạnh tranh quốc tế, và năng lực phát triển bền vững.
Vì vậy, bài toán đặt ra hiện nay không phải là “giữ hay bỏ”, mà là làm thế nào để tái cấu trúc đại học vùng một cách hiệu quả, hiện đại, tinh gọn và phù hợp xu hướng quốc tế.
Khác biệt lịch sử hình thành tạo nên bản sắc riêng của Đại học Đà Nẵng
Cùng bàn về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thị Thúy Anh - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, đã đưa ra một góc nhìn cụ thể hơn từ thực tiễn vận hành của một đại học vùng tại khu vực miền Trung.
Theo Giáo sư Thúy Anh, Đại học Đà Nẵng có xuất phát điểm “không giống bất kỳ đại học vùng nào khác”. Nếu các đại học vùng như Thái Nguyên hay Huế được hình thành trên cơ sở hợp nhất những trường đại học có bề dày lịch sử, thì bối cảnh của Đại học Đà Nẵng lại khác.
“Khi thành lập Đại học Đà Nẵng, chỉ có Trường Đại học Bách khoa là một cơ sở đã có truyền thống phát triển. Các trường còn lại như Sư phạm, Ngoại ngữ… khi đó mới chỉ là trường cao đẳng; Trường Đại học Kinh tế khi đó cũng mới chỉ là một phân hiệu của Bách khoa”, Giáo sư Thúy Anh cho biết.
Chính vì vậy, khác với các đại học vùng được hình thành bằng cách tập hợp những trường đã lớn mạnh, Đại học Đà Nẵng lại là mô hình mà các trường thành viên cùng được hình thành và lớn lên trong chính cấu trúc của “đại học mẹ”.
Theo Giáo sư Thúy Anh, đây là lý do khiến các trường thành viên của Đại học Đà Nẵng có bối cảnh phát triển đặc thù: “Họ trưởng thành trong hệ sinh thái của Đại học Đà Nẵng, nên nhận thấy rõ lợi ích khi thuộc về đại học vùng. Các trường đại học thành viên lớn mạnh được như hôm nay là nhờ sự hỗ trợ chung đó”.
Dù mô hình đại học vùng có những hạn chế nhất định về bộ máy hay sự phức tạp trong quản trị, nhưng theo Giáo sư Thúy Anh, ưu điểm hiện nay mà các trường thành viên cảm nhận được “nhiều hơn và rõ hơn”.
Ngoài ra, việc dùng chung nhiều nguồn lực, từ hạ tầng, phòng thí nghiệm, thư viện đến đội ngũ chuyên gia,... tạo ra lợi ích thiết thực mà một trường đơn lẻ khó có được. “Nếu mỗi trường chạy theo một đường, không chia sẻ nguồn lực, thì họ sẽ không nhìn thấy vai trò của đại học vùng”, cô Thúy Anh nói.
Khẳng định vai trò của Đại học Đà Nẵng đối với khu vực miền Trung - Tây Nguyên, Giáo sư Thúy Anh nhấn mạnh:
“Đại học Đà Nẵng đã và đang đóng vai trò chủ lực trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại khu vực, nơi có tiềm năng phát triển kinh tế rất lớn”.
Vai trò này tiếp tục được củng cố khi Kết luận số 45 của Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chọn Đại học Đà Nẵng là 1 trong 4 đại học được đầu tư trọng điểm, làm mô hình mẫu cho hệ thống giáo dục đại học quốc gia trong việc thúc đẩy hợp tác “3 nhà” và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp.
“Đây là cơ hội lớn không chỉ cho Đại học Đà Nẵng mà cho cả các trường thành viên, khi họ được hưởng lợi trực tiếp từ sự đầu tư mang tính chiến lược này”, vị lãnh đạo đánh giá.
Theo Giáo sư Thúy Anh, với sứ mệnh mới và định hướng được chọn làm “hình mẫu quốc gia”, Đại học Đà Nẵng sẽ phải tiếp tục tái cấu trúc bộ máy, đổi mới phương thức vận hành và tối ưu hóa nguồn lực nội bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới.
“Chúng tôi kỳ vọng sự thay đổi này sẽ củng cố hơn nữa mô hình đại học vùng, để Đại học Đà Nẵng tiến tới mục tiêu trở thành đại học quốc gia trong tương lai gần”, vị lãnh đạo khẳng định.
Đại học Đà Nẵng có thể là mô hình cải cách đại học vùng
Chia sẻ với phóng viên, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Chính - nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cũng bày tỏ sự đánh giá cao những nỗ lực đổi mới trong mô hình vận hành của Đại học Đà Nẵng và cho rằng đây có thể là một hình mẫu tham khảo quan trọng.
Theo Giáo sư Nguyễn Đức Chính, Đại học Đà Nẵng đang thể hiện sự phát triển đúng hướng trong cách tổ chức và điều phối các trường thành viên.
“Có thể xem Đại học Đà Nẵng như một mô hình cải cách đại học vùng phù hợp, ở đó các trường thành viên cảm thấy gắn bó, đồng thời nhận thấy rõ sự cần thiết của đại học vùng đối với sự phát triển của mình”, thầy Chính nhận định.
Điều này cho thấy khi mô hình đại học vùng được vận hành linh hoạt, minh bạch và hiệu quả, nó vẫn có khả năng tạo ra giá trị, thay vì trở thành tầng nấc hành chính cồng kềnh như nhiều ý kiến lo ngại.
Giáo sư Nguyễn Đức Chính cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có đánh giá toàn diện về thực trạng vận hành của tất cả đại học vùng hiện nay. Trên cơ sở đó, cần ban hành những hướng dẫn cụ thể nhằm khắc phục các hạn chế mang tính hệ thống.
Giáo sư cũng nhấn mạnh rằng, để mô hình đại học vùng và phát huy tối đa tiềm năng, cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ và nhất quán từ Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo.
“Cải cách thể chế là yêu cầu bắt buộc, trong đó cần giao quyền tự chủ mạnh mẽ hơn cho đại học vùng trên tất cả các phương diện: tổ chức bộ máy, tuyển dụng nhân sự, mở ngành đào tạo mới, quản lý tài chính đến hợp tác quốc tế”, thầy Chính đề xuất.
Bên cạnh đó, thầy cũng cho rằng nguồn lực tài chính là yếu tố quyết định: “Không thể yêu cầu đại học vùng làm nhiệm vụ dẫn dắt khi nguồn đầu tư còn quá khiêm tốn. Tăng cường đầu tư công sẽ giúp đại học vùng có đủ nguồn lực để điều phối hệ thống, hỗ trợ trường thành viên, đến thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo phục vụ khu vực”.
Theo quan điểm của Giáo sư Nguyễn Đức Chính, mục tiêu quan trọng nhất là xây dựng một hệ thống đại học vùng mạnh - tinh gọn - hiệu quả, đóng vai trò đầu tàu của khu vực trong đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao tri thức.
Nguồn lực hạn chế - Nút thắt lớn trong vận hành đại học vùng
Dù có vai trò và tiềm năng lớn, song Giáo sư Thúy Anh cũng thẳng thắn chỉ ra một “nút thắt” khiến mô hình đại học vùng khó phát huy hết chức năng: nguồn lực đầu tư từ Nhà nước còn hạn chế.
Theo cô, trong bối cảnh phần lớn kinh phí của các cơ sở giáo dục đại học hiện nay đến từ học phí, mô hình đại học vùng gặp bất lợi:
“Đại học vùng không trực tiếp đào tạo nên không có nguồn thu từ học phí. Không có nguồn lực thì rất khó làm nhiệm vụ điều phối, khó thể hiện vai trò dẫn dắt”.
Điều này dẫn đến thực tế rằng các trường thành viên, vốn phải tự chủ tài chính, đôi khi không nhận thấy ngay lợi ích chung từ “đại học mẹ”. “Nếu đại học vùng chỉ có “cái nắp” mà không có nguồn kinh phí để điều phối, thì không thể kỳ vọng họ phát huy tốt vai trò của mình”, Giáo sư Thúy Anh chỉ rõ.