Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy ý kiến về dự thảo Thông tư Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 25/2021/TT-BGDĐT ngày 8/9/2021 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn triển khai đào tạo trình độ tiến sĩ, trình độ thạc sĩ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học theo Quyết định số 89/QĐ-TT (gọi tắt là Đề án 89).
Dự thảo có một số nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung đáng chú ý. Theo đó, người đi học là công dân Việt Nam, không quá 40 tuổi trong năm Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt đủ điều kiện nhận kinh phí hỗ trợ đi học theo Đề án nếu đi học sau đại học lần đầu và không quá 45 tuổi trong năm Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt đủ điều kiện nhận kinh phí hỗ trợ đi học theo Đề án nếu đi học sau đại học lần thứ hai trở đi. Trong khi quy định hiện hành yêu cầu tuổi không quá 40 tính đến năm tham gia tuyển chọn.
Giúp giảng viên giảm bớt tâm lý giới hạn tuổi tác khi đi học nâng cao trình độ
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào chia sẻ, việc Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất nâng độ tuổi không quá 45 tuổi trong năm Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt đủ điều kiện nhận kinh phí hỗ trợ đi học theo Đề án nếu đi học sau đại học lần thứ hai trở đi là một sự điều chỉnh hợp lý, mang tính nhân văn và hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên trong giai đoạn hiện nay.
Trước hết, tại Trường Đại học Tân Trào, nhà trường đã ban hành quy định nội bộ về độ tuổi đi học đối với giảng viên. Theo đó, giảng viên trong độ tuổi đi học (nữ dưới 47 tuổi, nam dưới 52 tuổi) nếu không đi học tiến sĩ sẽ không được xét danh hiệu thi đua.
Quy định này phản ánh quan điểm nhất quán của nhà trường trong việc nâng cao trình độ, vì vậy, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo mở rộng khoảng tuổi được phép đi học, giảng viên sẽ có thêm thời gian, thêm cơ hội và giảm bớt tâm lý bị giới hạn về tuổi tác, từ đó có thêm động lực tiếp tục con đường học thuật để đáp ứng yêu cầu và quy định của nhà trường.
Đồng thời, trong bối cảnh đang thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW và Quyết định số 452/QĐ-TTg đều nhấn mạnh yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, đặc biệt là nâng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ. Theo đó, các trường đại học cũng cần xác định rõ phải từng bước tăng chất lượng nhân lực, nâng cao năng lực nghiên cứu, bảo đảm đội ngũ giảng viên có trình độ cao và có khả năng tham gia vào các định hướng phát triển chiến lược của ngành.
Vì vậy, nội dung này trong dự thảo không chỉ là sự hỗ trợ cá nhân với mỗi giảng viên mà còn là giải pháp để các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các trường địa phương có thể đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ theo lộ trình quy hoạch mạng lưới đến năm 2030 và năm 2050. Điều này giúp khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhà trường.
Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn - Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào. Ảnh: website nhà trường.
Còn theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Khả Vi - Giảng viên Trường Đại học Lạc Hồng, hiện đang học tiến sĩ theo Đề án 89 chia sẻ, việc đề xuất thầy, cô không quá 45 tuổi được phê duyệt đủ điều kiện nhận kinh phí hỗ trợ đi học theo Đề án 89 nếu đi học sau đại học lần thứ hai là hợp lý.
Thực tế, quá trình học tiến sĩ thường gặp nhiều khó khăn, bởi nhiều nghiên cứu sinh phải đồng thời đảm nhiệm công tác chuyên môn, lo toan cuộc sống và hoàn thành nhiệm vụ học tập. Do đó, đề xuất này là một chính sách nhân văn và cần thiết, giúp giảm áp lực, mở rộng cơ hội phát triển cho giảng viên cũng như khuyến khích họ kiên trì theo đuổi con đường học thuật.
Đồng thời, việc tạo điều kiện để giảng viên hoàn thiện trình độ tiến sĩ sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ trong các cơ sở giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa và phát triển bền vững của hệ thống giáo dục nước nhà.
Dự thảo cũng đề xuất về quy định thời gian được tạm dừng học tập, thống nhất mức tối đa 12 tháng cho cả nghiên cứu sinh và học viên thạc sĩ, thay vì giới hạn 12 tháng đối với nghiên cứu sinh và 6 tháng đối với thạc sĩ như quy định hiện hành.
Theo cô Vy, điểm mới này sẽ mang lại nhiều thuận lợi hơn cho người học so với quy định hiện hành. Trước hết, quy định này đặc biệt có ý nghĩa đối với người học là nữ giới, nhất là trong giai đoạn mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ. Thực tế, trước đây đã có không ít trường hợp học viên bỏ dở chương trình vì vướng thời gian thai sản hoặc phải chăm con nhỏ, khiến họ khó có thể tập trung vào việc học.
Vì vậy, với quỹ thời gian tạm dừng được kéo dài đến 12 tháng, học viên thạc sĩ sẽ chủ động hơn trong việc sắp xếp giữa học tập và gia đình, thay vì phải gấp rút quay lại chương trình học chỉ sau 6 tháng như hiện nay. Điều này giúp họ giảm áp lực, đảm bảo sức khỏe và có điều kiện để quay lại học tập một cách hiệu quả hơn.
Đồng quan điểm, theo Hiệu trưởng Trường Đại học Tân Trào, so với quy định hiện nay chỉ giới hạn 6 tháng đối với học viên thạc sĩ thì quy định mới sẽ tạo thêm không gian để giảng viên có thể xử lý những vấn đề gia đình, sức khỏe, công việc cơ quan hoặc những biến động khách quan khó tránh.
Trong thực tế, nhiều giảng viên đi học sau đại học đều đồng thời đảm nhiệm nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu và cả quản lý tại trường. Khi công việc đột xuất phát sinh, họ thường không thể ổn định ngay để tiếp tục chương trình đào tạo sau đại học theo tiến độ. Khoảng thời gian 6 tháng theo quy định hiện nay đôi khi quá ngắn, khiến giảng viên buộc phải quay lại học trong trạng thái chưa thật sự sẵn sàng, ảnh hưởng đến chất lượng học tập và luận văn.
"Đối với một trường đại học địa phương như Trường Đại học Tân Trào, nhiệm vụ nâng cao trình độ đội ngũ là nhiệm vụ chiến lược, gắn với yêu cầu của Nghị quyết số 71-NQ/TW và Quyết định số 452/QĐ-TTg. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để giảng viên có thể duy trì và hoàn thành chương trình sau đại học một cách bền vững, không bị gián đoạn bởi những biến cố ngắn hạn là rất cần thiết, góp phần nâng cao tỷ lệ hoàn thành chương trình sau đại học và bảo đảm mục tiêu chuẩn hóa đội ngũ theo đúng định hướng phát triển của ngành giáo dục đại học", thầy Tuấn chia sẻ.
Cần điều chỉnh thêm hỗ trợ tài chính hoặc linh hoạt hóa cơ chế
Theo Tiến sĩ Nguyễn Minh Anh Tuấn, Đề án 89 được thiết kế với mục tiêu là phát triển đội ngũ giảng viên các cơ sở giáo dục đại học đạt chuẩn, hướng tới chuẩn tiến sĩ, tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ cao và nâng cao năng lực nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học.
Tuy nhiên, theo thầy Tuấn, từ góc nhìn của người quản lý đội ngũ giảng viên tại một trường đại học địa phương như Trường Đại học Tân Trào, vẫn còn một số hạn chế của đề án khiến giảng viên chưa thật sự mặn mà khi tham gia.
Thứ nhất, điều kiện và tiêu chuẩn đi học theo Đề án 89 khá cao. Người học phải đáp ứng yêu cầu về năng lực nghiên cứu, hồ sơ khoa học và hồ sơ công bố tương đối chặt chẽ. Đối với giảng viên các trường địa phương, môi trường nghiên cứu, hợp tác quốc tế hoặc cơ hội tiếp cận các nhóm nghiên cứu mạnh còn hạn chế, việc đạt chuẩn đầu vào để được phê duyệt theo Đề án không đơn giản. Đây là rào cản lớn khiến một bộ phận giảng viên e ngại ngay từ bước đầu.
Thứ hai, yêu cầu về công bố khoa học trong quá trình học tiến sĩ theo chuẩn của Đề án cũng là thách thức. Đề án 89 đặt mục tiêu đào tạo giảng viên theo chuẩn quốc tế, do đó tiêu chí công bố khoa học ở mức tương đối cao, nhiều giảng viên chưa có nền tảng nghiên cứu mạnh hoặc chưa quen với môi trường công bố quốc tế sẽ cảm thấy áp lực lớn, dẫn đến tâm lý do dự khi đăng ký tham gia.
Thứ ba, thời gian đào tạo dài và yêu cầu tập trung toàn thời gian cũng là điểm khiến nhiều giảng viên cân nhắc. Đề án khuyến khích hình thức đào tạo toàn thời gian, nhưng phần lớn giảng viên tại các trường đại học địa phương vừa phải đảm nhiệm công việc giảng dạy, quản lý, vừa có trách nhiệm gia đình. Việc tạm dừng công tác để đi học dài hạn không phải lúc nào cũng khả thi, đặc biệt khi nhà trường không có nhiều nhân sự thay thế.
Thứ tư, chính sách hỗ trợ tài chính dù đã cố gắng bao phủ nhiều khoản mục nhưng vẫn chưa thực sự tương xứng với chi phí thực tế trong quá trình học tập, nhất là đối với những chương trình đào tạo chất lượng cao hoặc đào tạo ở nước ngoài. Sự chênh lệch này khiến một số giảng viên lo ngại về chi phí phát sinh và giảm động lực tham gia.
Cũng theo thầy Tuấn, Đề án 89 có mục tiêu rất tốt và mang tính chiến lược đối với sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam. Tuy nhiên, để tăng mức độ hấp dẫn đối với giảng viên, đặc biệt là giảng viên các trường địa phương, cần có thêm các điều chỉnh về tiêu chuẩn, phương thức hỗ trợ, chế độ tài chính và cơ chế linh hoạt hơn trong đào tạo và quản lý người học.
Trước hết, cần điều chỉnh tiêu chuẩn đầu vào theo hướng mềm dẻo hơn nhưng vẫn bảo đảm chất lượng. Đề án 89 đặt mục tiêu rất cao về năng lực nghiên cứu và ngoại ngữ, tuy nhiên, đối với giảng viên ở các trường địa phương cần có thêm cơ chế hỗ trợ giai đoạn chuẩn bị như các khóa bồi dưỡng năng lực nghiên cứu, khóa tăng cường ngoại ngữ, hoặc các quỹ hỗ trợ xây dựng đề cương luận án trước khi tham gia chương trình tiến sĩ. Điều này giúp người học có bước đệm vững chắc thay vì phải đáp ứng ngay yêu cầu cao từ đầu.
Bên cạnh đó, cần tăng mức hỗ trợ tài chính hoặc linh hoạt hóa cơ chế hỗ trợ. Học phí, chi phí sinh hoạt, chi phí công bố khoa học, chi phí đi lại và nghiên cứu thường vượt xa định mức được hỗ trợ hiện nay. Đối với đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài hoặc chương trình liên kết quốc tế, cần xem xét nâng trần hỗ trợ hoặc cho phép kết hợp thêm các nguồn lực xã hội hóa, học bổng đối tác, hoặc quỹ phát triển giáo dục để giảm gánh nặng cho người học.
Đồng thời, cần đẩy mạnh chính sách khuyến khích người học sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh ràng buộc trách nhiệm quay về trường, cũng cần chính sách ưu tiên như hỗ trợ nghiên cứu sau tiến sĩ, cơ chế nâng ngạch, xếp lương, hoặc ưu tiên trong các đề tài khoa học và dự án quốc gia. Những chính sách này sẽ tạo sức hút thực sự để giảng viên thấy rõ lợi ích nghề nghiệp lâu dài khi tham gia đề án.
Đồng quan điểm, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Thắng - Trưởng phòng Phòng Đào tạo, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, việc điều chỉnh độ tuổi như dự thảo Thông tư không chỉ mở rộng cơ hội cho người học mà còn tạo động lực mạnh mẽ để các cơ sở giáo dục đại học chủ động xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa theo định hướng của các chiến lược quốc gia. Đây là bước điều chỉnh tích cực, thể hiện sự hài hòa giữa bảo đảm quyền lợi của giảng viên và thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Theo thầy Thắng, việc triển khai Đề án 89 đã mang lại những ý nghĩa rất quan trọng, đó là tạo động lực phát triển đội ngũ giảng viên, góp phần gia tăng tỉ lệ nghiên cứu sinh, tỉ lệ tiến sĩ, nâng cao chất lượng giảng viên về số lượng và thực chất.
Tuy nhiên, hiện một số quy định trong đề án còn mang tính ràng buộc khá chặt chẽ như thời gian hoàn thành, cam kết quay trở lại công tác tại trường, hay hoàn trả kinh phí nếu không hoàn thành chương trình.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, người học có thể gặp phải những biến cố ngoài ý muốn như bệnh tật, khủng hoảng tâm lý hoặc tai nạn, khiến họ không thể hoàn thành cam kết như ban đầu. Với những trường hợp bất khả kháng, chính sách cần có cách xử lý linh hoạt như miễn bồi hoàn hoặc áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro. Điều này không chỉ thể hiện tính nhân văn mà còn giúp người học yên tâm hơn khi tham gia các đề án đào tạo bằng ngân sách Nhà nước.
Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh trao bằng tốt nghiệp cho các tân tiến sĩ. Ảnh: Website nhà trường.
Còn theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Khả Vi, Đề án 89 hiện nay vẫn còn một số mặt hạn chế như còn nặng về thủ tục hành chính, từ khâu đăng ký, xét chọn cho đến quản lý du học sinh, khiến quá trình tham gia trở nên phức tạp. Ngoài ra, mức kinh phí hỗ trợ mới chỉ đáp ứng được nhu cầu cơ bản, chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút người học thực sự.
Thực tế, kinh phí đào tạo tiến sĩ dù trong nước hay ở nước ngoài, hiện đều ở mức cao. Khi phải thường xuyên lo lắng về học phí và các chi phí liên quan, nghiên cứu sinh khó có thể toàn tâm toàn ý cho việc học tập và nghiên cứu. Vì vậy, việc tăng mức độ hấp dẫn đối với giảng viên là hết sức cần thiết.
Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nghiên cứu sinh trong quá trình học tập và nghiên cứu, cô Vi kỳ vọng rằng, trong tương lai, các thủ tục hành chính liên quan đến đào tạo tiến sĩ sẽ được gỡ khó và cải thiện. Việc đơn giản hóa quy trình, thủ tục hỗ trợ và nâng cao tính liên kết giữa các cơ quan quản lý không chỉ giúp nghiên cứu sinh có nhiều thuận lợi hơn về thời gian, chi phí, mà còn tạo điều kiện để người học sẽ có điều kiện tập trung cao hơn cho mục tiêu học thuật, qua đó nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo