Mù Cang Chải khởi sắc nhờ mô hình hợp tác xã nông nghiệp, người dân cải thiện sinh kế

18/12/2025 13:44
Thu Thuỷ

GDVN - Trung bình mỗi năm, hợp tác xã Nông nghiệp sạch T&D chi khoảng 3 tỷ đồng cho tiền công lao động, chủ yếu là bà con người Mông tại địa phương.

Theo Quyết định số 353/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái (nay là xã Mù Cang Chải, tỉnh Lào Cai) là một trong những huyện đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021 - 2025. Do vậy, Đảng bộ, chính quyền xã Mù Cang Chải đã xác định, để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã thì công tác giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và lâu dài.

Trong giai đoạn 2021 - 2025, thông qua các chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo, cận nghèo, xã Mù Cang Chải đã xóa nhà dột nát cho 448 hộ nghèo, cận nghèo; giải quyết việc làm mới cho 616 lao động; mở các lớp đào tạo nghề cho hộ nghèo, cận nghèo, qua đó nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của xã đạt trên 65,5%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt trên 37,5%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 15%.

Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn xã được giảm mạnh, giai đoạn 2021 - 2025 bình quân giảm trên 8%/năm, hiện tổng số hộ nghèo trên địa bàn xã chỉ còn 545 hộ, chiếm tỷ lệ 16,26%; tổng số hộ cận nghèo còn 157 hộ, chiếm tỷ lệ 4,68%.

Phát triển mô hình nông nghiệp sạch với chủ lực là giống su su lấy quả

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, đại diện Ủy ban Nhân dân xã Mù Cang Chải (tỉnh Lào Cai) cho biết, trên địa bàn xã hiện có một số mô hình sản xuất nổi bật như Mô hình trồng sâm Việt Nam của Công ty Cổ phần Đầu tư PANAX Việt Nam, mô hình trồng rau an toàn của Hợp tác xã Nông nghiệp sạch T&D và mô hình du lịch cộng đồng. Các mô hình này đã phát huy được lợi thế về sản xuất, du lịch của xã, tạo việc làm thường xuyên với thu nhập ổn định cho nhiều người dân trên địa bàn xã, góp phần ổn định kinh tế địa phương.

Tiêu biểu trong số đó là Hợp tác xã nông nghiệp sạch T&D do anh Phạm Quang Thọ sáng lập. Nhờ đó, nhiều hộ dân có hoàn cảnh khó khăn đã cải thiện thu nhập từ việc trồng cây lấy quả, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của địa phương.

11.png
Anh Phạm Quang Thọ - Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp sạch T&D (xã Mù Cang Chải, tỉnh Lào Cai). 

Chia sẻ về mô hình trồng rau sạch, anh Phạm Quang Thọ - Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp sạch T&D (xã Mù Cang Chải, tỉnh Lào Cai) cho biết: “Nhận thấy vùng đất Lao Chải có khí hậu mát mẻ quanh năm, đất đai dồi dào nên từ năm 2007, tôi đã có ý tưởng phát triển mô hình nông nghiệp sạch.

Ban đầu tôi chủ yếu trồng cây táo mèo và một số loại rau, đến năm 2019, tôi quyết định thành lập Hợp tác xã Nông nghiệp sạch T&D với 7 thành viên, hoạt động chính là sản xuất rau, củ quả, trong đó cây su su lấy quả là cây trồng chính.

Thời điểm ấy, hợp tác xã xuất phát điểm là một mô hình sản xuất nhỏ, chúng tôi vừa làm vừa tích lũy kinh nghiệm. Đến nay, hợp tác xã đang canh tác khoảng 15ha đất nông nghiệp, trong đó có khoảng 4ha trồng dâu, phần diện tích còn lại chủ yếu dành cho cây su su và các loại rau ngắn ngày như bí, cải thảo, su hào, bắp cải, hành, cà chua và dưa chuột”.

Theo anh Thọ, ngay từ khi thành lập, hợp tác xã đã kiên định lựa chọn hướng đi sản xuất rau, quả an toàn, lấy chất lượng làm nền tảng thay vì chạy theo sản lượng. Bởi chỉ khi sản phẩm bảo đảm an toàn, đồng đều và ổn định thì mới có thể tạo dựng uy tín, đứng vững và phát triển bền vững trên thị trường.

Hiện nay, sản phẩm rau, quả của hợp tác xã chủ yếu được tiêu thụ tại các chợ đầu mối, khu công nghiệp, trường học trên địa bàn, đồng thời cung ứng cho thị trường trong xã và trong tỉnh. Đây là những kênh tiêu thụ quen thuộc, tương đối ổn định, giúp hợp tác xã duy trì nhịp độ sản xuất liên tục, đều đặn quanh năm.

Đối với cây su su, thời gian thu hoạch kéo dài gần như suốt năm, từ đầu năm đến cuối năm. Vì vậy, nhu cầu lao động cũng mang tính thường xuyên và liên tục hơn so với nhiều loại cây trồng khác. Trong khi đó, dâu và các loại rau ngắn ngày chủ yếu sản xuất theo mùa vụ, thu hoạch theo từng đợt nên việc sử dụng nhân công được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với từng giai đoạn chăm sóc và thu hái.

thiet-ke-chua-co-ten.png
Su su lấy quả là loại cây trồng chủ lực tại Hợp tác xã Nông nghiệp sạch T&D (xã Mù Cang Chải, tỉnh Lào Cai).

“Trong suốt quá trình sản xuất, hợp tác xã luôn đặt việc tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm lên hàng đầu. Hiện nay, các sản phẩm của chúng tôi được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, trong đó một số sản phẩm su su đã đạt chứng nhận OCOP 3 sao. Những chứng nhận này không chỉ là sự khẳng định về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm mà còn góp phần tạo dựng niềm tin đối với người tiêu dùng, qua đó giúp việc tiêu thụ thuận lợi và ổn định hơn”, anh Thọ bày tỏ.

Đến nay, hợp tác xã su su đã trồng 12 ha su su lấy quả, với mùa thu hoạch kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12. Một ha su su mang lại doanh thu từ 300-500 triệu đồng/năm. Vào vụ thu hoạch, hợp tác xã cung ứng trung bình 7-10 tấn quả/ngày cho các chợ đầu mối với giá bình quân 5.000-7.000 đồng/kg, đầu và cuối vụ đạt 10.000-12.000 đồng/kg.

Hiện nay, một số khách hàng từ Ấn Độ, Đài Loan cũng đã tìm hiểu và có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm su su của hợp tác xã. Do đó, hợp tác xã đang mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng và sản lượng, phấn đấu cung ứng ra thị trường từ 15-20 tấn quả/ngày. Ngoài thị trường lớn, sản phẩm còn cung cấp cho bếp ăn tập thể các trường học trong và ngoài huyện.

Trong thời gian tới, mỗi năm hợp tác xã dự kiến đầu tư làm giàn, trồng thêm 3-4 ha su su, phấn đấu toàn hợp tác xã đạt khoảng 25 ha. Hợp tác xã cũng liên kết và hỗ trợ bao tiêu sản phẩm cho các hộ dân trồng su su trong vùng.

Tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều người dân địa phương

Để đạt được và duy trì các tiêu chuẩn này, hợp tác xã phải đầu tư không nhỏ cả về vốn ban đầu lẫn chi phí duy trì hằng năm, đòi hỏi các thành viên luôn kiên trì, nghiêm túc và nỗ lực trong từng khâu sản xuất.

Theo anh Thọ, doanh thu bình quân hằng năm của hợp tác xã hiện đạt khoảng 4-5 tỷ đồng. Sau khi khấu trừ toàn bộ chi phí cho sản xuất, giống, vật tư, vận chuyển và nhân công, lợi nhuận còn lại vào khoảng 1 tỷ đồng. Dù con số này chưa thật sự lớn nhưng đối với một hợp tác xã nông nghiệp hoạt động tại vùng cao, đây là nguồn thu tương đối ổn định, tạo động lực để các thành viên yên tâm gắn bó lâu dài với sản xuất nông nghiệp.

"Với diện tích rộng và công việc nhiều, hợp tác xã hiện tạo việc làm thường xuyên cho 12 lao động với thu nhập từ 5-9 triệu đồng/tháng, đồng thời thu hút 20 - 30 lao động thời vụ trong mùa chăm sóc và thu hoạch.

Trung bình mỗi năm, hợp tác xã chi khoảng 3 tỷ đồng cho tiền công lao động, chủ yếu là bà con người Mông tại địa phương, với mức trả khoảng 230.000 đồng/người/ngày", anh Thọ cho hay.

Trong quá trình phát triển, hợp tác xã được chính quyền địa phương quan tâm nắm bắt tình hình hoạt động, định hướng và tạo điều kiện để đơn vị sản xuất, kinh doanh đúng quy định. Bên cạnh đó, xã cũng phối hợp, hỗ trợ trong việc kết nối thông tin, tạo điều kiện về thủ tục và định hướng phát triển phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Nhờ vậy, hợp tác xã từng bước ổn định sản xuất và mở rộng quy mô.

"Trong giai đoạn tới, địa phương tiếp tục xem xét, hỗ trợ hợp tác xã trong tiếp cận quỹ đất sản xuất và các chính sách về vốn theo quy định, nhằm tạo điều kiện cho đơn vị đầu tư mở rộng sản xuất, trong đó có phát triển nhà kính trồng dâu sạch và các loại rau, quả chất lượng cao. Việc hỗ trợ này góp phần giúp hợp tác xã nâng cao hiệu quả hoạt động, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho lao động tại chỗ, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương”, anh Thọ chia sẻ.

Thu Thuỷ