Nông nghiệp hiện đại không còn là nghề “vất vả ngoài đồng”

19/12/2025 06:25
Hồng Linh

GDVN - Tăng cường dự báo nhân lực quốc gia theo ngành là điều kiện tiên quyết để đảm bảo đào tạo đúng - trúng - hiệu quả.

Vấn đề tăng cường cơ chế hỗ trợ riêng cho những ngành thiết yếu nhưng khó thu hút nhân lực, đặc biệt là nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản hay tài nguyên nước đang được dư luận quan tâm.

Lãnh đạo một số trường đại học, khoa đào tạo các ngành học này đã đưa ra những góp ý, đề xuất để thúc đẩy tuyển sinh cũng như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp.

Nông nghiệp hiện đại là nghề của công nghệ, của thị trường, của môi trường bền vững

Nhận định về tầm quan trọng của việc đầu tư đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, Tiến sĩ Trần Đình Lý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh nói: "Các ngành học này giữ vai trò trụ cột trong an ninh lương thực, phát triển bền vững và xuất khẩu của Việt Nam. Trong bối cảnh nông nghiệp đang chuyển đổi mạnh sang công nghệ cao, xu hướng xanh - tuần hoàn và số hóa, nguồn nhân lực của lĩnh vực có vai trò quan trọng và cần chiến lược đầu tư đào tạo.

Nông - lâm - ngư nghiệp chính là nền tảng chiến lược của quốc gia và là lĩnh vực chuyển đổi nhanh nhất trong vài năm trở lại đây. Nông nghiệp Việt Nam đã đi xa khỏi hình ảnh “truyền thống”, trở thành ngành kinh tế công nghệ cao, ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, giống mới, logistics lạnh, chế biến sâu và kinh tế tuần hoàn.

Để vận hành một nền nông nghiệp hiện đại như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định. Không có đội ngũ kỹ sư, chuyên gia, nhà quản trị giỏi thì mọi mục tiêu về an ninh lương thực, xuất khẩu bền vững hay chuyển đổi xanh sẽ khó đạt được.

Đầu tư đào tạo nhân lực cho ngành không phải là "giải pháp tạm thời”, mà là đầu tư vào nội lực quốc gia, giúp Việt Nam giữ vững lợi thế và mở ra những cơ hội mới trong chuỗi giá trị toàn cầu".

Thầy Lý cho rằng, xã hội cần nhìn nhận đúng hơn về cơ hội nghề nghiệp trong các ngành nông nghiệp hiện đại. Thực tế, nông nghiệp hiện đại không còn là nghề “vất vả ngoài đồng”, mà là nghề của công nghệ, của thị trường, của môi trường bền vững – nơi người trẻ có thể sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển sự nghiệp lâu dài.

Nhu cầu nhân lực của ngành đang tăng nhanh, nhất là trong các doanh nghiệp công nghệ nông nghiệp, chế biến, logistics, chuỗi cung ứng, công nghệ sinh học, truy xuất nguồn gốc. Đây là lĩnh vực có tốc độ đổi mới mạnh, đòi hỏi lực lượng lao động trẻ, sáng tạo và có kỹ năng số.

Cùng với đó, nhiều trường đào tạo nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đã đổi mới mạnh mẽ chương trình, tăng hợp tác doanh nghiệp và đẩy mạnh đào tạo thực hành, công nghệ cao. Cụ thể như chương trình đào tạo gắn kết doanh nghiệp; tăng thực hành, tăng trải nghiệm nghề nghiệp; đa ngành, đa lĩnh vực, kết hợp nông nghiệp – công nghệ – kinh doanh – dữ liệu; cơ hội việc làm rộng mở trong và ngoài nước.

z7315689100625-997074479fcd728ea0e01560feea77d4.jpg
Tiến sĩ Trần Đình Lý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.

Cùng bàn luận về vấn đề này, Tiến sĩ Cao Thị Làn - Trưởng khoa Khoa Nông Lâm, Trường Đại học Đà Lạt cho rằng: "Trong bối cảnh chuyển đổi số và phát triển khoa học – công nghệ, nhu cầu đầu tư cho nhân lực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn vô cùng cấp thiết. Công nghệ chỉ giải quyết được một phần của quá trình sản xuất; yếu tố con người vẫn đóng vai trò quyết định trong việc quản lý, giám sát, vận hành và xử lý các tình huống thực tế.

Đặc biệt, để nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng – vật nuôi và đảm bảo môi trường sinh thái, xã hội đòi hỏi đội ngũ nhân lực chất lượng cao, có khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến trên nền tảng tài nguyên hạn chế".

Được biết, vấn đề đổi mới chương trình đào tạo đã được Khoa Nông Lâm, Trường Đại học Đà Lạt nói riêng tích cực thực hiện nhất là chuyển biến mạnh mẽ, thiết kế chương trình gắn với thực tiễn, tăng cường học phần thực hành nghề nghiệp để sinh viên tiếp cận môi trường sản xuất ngay từ khi còn đi học, tránh nặng nề về lý thuyết.

Theo chia sẻ của Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Xuân - Trưởng khoa Khoa Nông nghiệp và Thủy sản, Trường Đại học Bạc Liêu, xu hướng đào tạo nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản hiện đại đòi hỏi người học phải được trang bị năng lực công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật và công nghệ số.

Nhiều trang trại và khu nông nghiệp quy mô lớn đã ứng dụng máy móc, thiết bị tự động và các giải pháp số trong sản xuất. Vì vậy, nhà trường đã tích hợp các học phần về công nghệ số, chuyển đổi số và ứng dụng AI vào chương trình đào tạo, thay cho mô hình đào tạo nông nghiệp truyền thống vốn không còn đáp ứng yêu cầu của thị trường.

Bên cạnh năng lực công nghệ, sinh viên nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp cần được phát triển kỹ năng marketing, quản trị chuỗi cung ứng, cùng kiến thức về các bộ tiêu chuẩn chất lượng như VietGAP, OCOP… nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh thị trường nội địa và quốc tế ngày càng khắt khe.

image-34457471121732686006619-cac7fb3e-941e-4872-b977-21c03e441172.png
Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Xuân - Trưởng khoa Khoa Nông nghiệp và Thủy sản, Trường Đại học Bạc Liêu. Ảnh: Website nhà trường.

Cần thiết có dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia theo ngành

Để thu hút người học ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, theo Tiến sĩ Trần Đình Lý, việc bổ sung các chính sách như học bổng mục tiêu, tín dụng ưu đãi theo ngành, đặt hàng đào tạo, đầu tư phòng thí nghiệm hiện đại và tăng cường hợp tác nhà trường - doanh nghiệp sẽ góp phần tạo sức bật cho đào tạo, có tác động ngay lập tức đến chất lượng và sức hấp dẫn của ngành.

Cụ thể, học bổng mục tiêu và tín dụng ưu đãi giúp sinh viên tự tin chọn các ngành thiết yếu mà không phải lo gánh nặng chi phí. Đặt hàng đào tạo giúp nhà trường chủ động bồi dưỡng đúng năng lực doanh nghiệp cần

Đầu tư phòng thí nghiệm, mô hình thực hành và nông nghiệp số giúp sinh viên tiếp cận công nghệ mới nhất Hợp tác doanh nghiệp đảm bảo sinh viên được học - được làm - được tuyển dụng.

"Nhà trường mong muốn các chính sách theo hướng dài hạn, ổn định và gắn với nhu cầu của từng vùng, từng ngành hàng, như lúa gạo, thủy sản, cây ăn trái, logistic lạnh, nông nghiệp số. Khi chính sách nhất quán, sự hấp dẫn của ngành sẽ tăng lên rõ rệt" - thầy Lý nói thêm.

Cùng với đó, việc tăng cường dự báo nhân lực quốc gia theo ngành đang được nhiều chuyên gia đề xuất. Vị Phó Hiệu trưởng nhấn mạnh, đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo đào tạo đúng - trúng - hiệu quả. Khi dữ liệu về thị trường lao động rõ ràng sẽ giúp xác định được quy mô đào tạo hợp lý cho từng lĩnh vực; tránh tình trạng thừa – thiếu cục bộ; giúp người học định hướng nghề nghiệp đúng; giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao hơn.

Ngoài cơ chế dự báo, thầy Lý đề xuất thêm có hệ thống dữ liệu nhân lực nông nghiệp quốc gia, tích hợp doanh nghiệp – địa phương – trường đại học. Cùng chính sách ưu đãi cho giảng viên trẻ, chuyên gia trẻ, đặc biệt trong công nghệ nông nghiệp và các ngành mới. Song song với đầu tư hạ tầng nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, nhất là các trung tâm nông nghiệp số, kinh tế xanh, sinh học ứng dụng.

Cũng cần khuyến khích đào tạo liên ngành, tạo nguồn nhân lực “2 trong 1”: kỹ thuật và công nghệ, kỹ thuật và quản lý, kỹ thuật và dữ liệu. Bên cạnh đó là truyền thông quốc gia để lan tỏa hình ảnh nông nghiệp hiện đại, sáng tạo, hội nhập.

Chia sẻ về mô hình hợp tác doanh nghiệp hiệu quả để thu hút người học, Tiến sĩ Cao Thị Làn cho biết đơn vị đã xây dựng được hệ thống liên kết doanh nghiệp bền vững trong nhiều năm qua. Nhờ mối quan hệ hợp tác hiệu quả này, khoa không gặp khó khăn trong việc đưa sinh viên đi thực tế, thực tập.

Yếu tố quyết định trong hợp tác nhà trường - doanh nghiệp là hai bên phải cùng trao đổi rõ nhu cầu, kỳ vọng, lợi ích. Khoa cần biết doanh nghiệp mong đợi gì ở sinh viên; doanh nghiệp cũng cần biết thời điểm, quy mô và yêu cầu thực tập của nhà trường.

Khi cả hai cùng nhìn thấy lợi ích chung – nhà trường có môi trường thực tế, doanh nghiệp có nguồn nhân lực tiềm năng – thì mối quan hệ hợp tác sẽ vận hành rất thuận lợi.

Về đề xuất bổ sung cơ chế dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia, cô Làn nói: "Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng, cần có hệ thống thống kê, dự báo định kỳ nhu cầu nhân lực của từng ngành, từng địa phương. Điều này giúp tránh tình trạng đào tạo thừa hoặc thiếu; đồng thời hỗ trợ phụ huynh và học sinh định hướng chọn ngành rõ ràng hơn. Các trường đại học cũng dựa vào đó để xác định ngành nào cần ưu tiên phát triển trong tương lai".

Theo góc nhìn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Xuân, cần có các chính sách hỗ trợ thiết thực để thu hút người học các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản. Nhiều sinh viên theo ngành vì đam mê và mong muốn đóng góp cho quê hương, nhưng đa phần xuất thân từ vùng nông thôn, điều kiện khó khăn, trong khi học phí và chi phí học tập vẫn là gánh nặng. Do đó, nên xem xét miễn học phí và hỗ trợ sinh hoạt phí để giảm áp lực tài chính, hạn chế bỏ học giữa chừng.

Bên cạnh các chính sách cho người học, việc đổi mới chương trình đào tạo, tạo hứng thú trong quá trình học, tăng cường thực hành và thúc đẩy sinh viên tham gia các hoạt động khởi nghiệp cũng là yếu tố quan trọng giúp ngành trở nên hấp dẫn hơn.

Ngoài ra, cũng cần có chính sách về đầu ra để đảm bảo việc làm cho người học cũng như những động viên, khuyến khích dành cho đội ngũ giảng viên tham gia giảng dạy những ngành học khó tuyển như trên.

Về cơ chế dự báo nhu cầu nhân lực theo ngành, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Xuân nói: "Nếu được cung cấp dữ liệu dự báo rõ ràng và đáng tin cậy về nhu cầu nhân lực tương lai, các trường sẽ thuận lợi hơn trong việc định hướng nghề nghiệp cho người học và bảo đảm nguồn nhân lực cho xã hội. Những số liệu này cũng giúp người học hình dung cụ thể hơn về cơ hội việc làm, tránh lựa chọn ngành nghề theo cảm tính và giảm tình trạng chênh lệch cung – cầu trên thị trường lao động".

Hồng Linh