Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT (gọi tắt là Thông tư 01) về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học là cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.
Theo quy định, các cơ sở giáo dục đại học phải chốt số liệu vào ngày 31 tháng 12 hằng năm; đối với số liệu về tài chính, thời điểm chốt số liệu là ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo.
Để tìm hiểu rõ hơn về việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí tại Thông tư 01, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam gửi câu hỏi tới Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế và đã nhận được chia sẻ của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân - Hiệu trưởng nhà trường.
Trường không có giảng viên chức danh giáo sư
Tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ theo điểm b, tiêu chí 2.3, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: “Không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ”.
Theo bảng thống kê đội ngũ giảng viên, viên chức quản lý và nhân viên tại Báo cáo thường niên năm 2024-2025 (ký ngày 14/7/2025) của Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế cho thấy, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của nhà trường trong năm 2024 đạt 47,46% và tăng lên 48,02% ở năm 2025, đạt Chuẩn cơ sở giáo dục đại học.
Nhà trường có tổng 245 giảng viên toàn thời gian; trong đó có 23 phó giáo sư, 84 tiến sĩ, 137 thạc sĩ và 1 cử nhân. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, báo cáo cho thấy, nhà trường không có giảng viên chức danh giáo sư nào.
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về kinh nghiệm xây dựng đội ngũ giảng viên đảm bảo vượt chuẩn và những nguyên nhân khiến trường chưa có giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế cho biết: “Với 48,02% tỷ lệ giảng viên đạt trình độ tiến sĩ trở lên của trường, đây là tỷ lệ khá cao đối với các trường thuộc khối kinh tế, không chỉ ở khu vực miền Trung mà còn ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Để đạt được điều này, những năm qua nhà trường đã triển khai nhiều chính sách đồng bộ. Thứ nhất, nhà trường khuyến khích và hỗ trợ cán bộ học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là đào tạo tiến sĩ, đồng thời chi trả học phí cho các chương trình đào tạo này. Thứ hai, nhà trường đẩy mạnh chính sách thu hút nhân tài với nhiều chế độ đãi ngộ dành cho giảng viên có trình độ cao, qua đó thu hút và giữ chân được đội ngũ giảng viên trình độ tiến sĩ.
Hiện nay, nhà trường có 23 phó giáo sư và hằng năm đều ban hành các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ nhằm khuyến khích giảng viên trình độ tiến sĩ phấn đấu đạt các chức danh phó giáo sư và giáo sư. Cụ thể, giảng viên đạt chức danh phó giáo sư sẽ được thưởng 40 triệu đồng/lần chi trả, đồng thời hưởng nhiều chế độ ưu đãi, trong đó có việc nâng định mức giờ giảng bình quân. Tương tự, giảng viên đạt chức danh giáo sư sẽ được thưởng 50 triệu đồng/lần chi trả và được điều chỉnh nâng định mức giờ giảng.
Tuy vậy, quá trình xét đạt chức danh giáo sư thường kéo dài và mỗi năm chỉ có số lượng hạn chế được công nhận. Hiện nhà trường chưa có giảng viên nào đạt chức danh giáo sư nhưng với 23 phó giáo sư trong đội ngũ, đây vẫn là con số rất đáng ghi nhận.
Nhà trường đã ban hành quy chế thu hút nhân tài từ bên ngoài, tuy nhiên việc mời gọi các chuyên gia và giảng viên giỏi về làm việc tại khu vực miền Trung gặp nhiều khó khăn, bởi phần lớn lực lượng này tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, giải pháp được xem là hiệu quả nhất hiện nay là đẩy mạnh quy hoạch và phát triển nhân lực nội bộ, đặc biệt là đội ngũ phó giáo sư có tiềm năng xét đạt chức danh giáo sư.
Đồng thời, nhà trường đã giao nhiệm vụ cho một số cán bộ có số lượng bài báo, công trình nghiên cứu gần đạt yêu cầu tiếp tục hoàn thiện hồ sơ khoa học. Hy vọng trong vài năm tới, nhà trường sẽ có đội ngũ giảng viên đạt chức danh giáo sư dày dặn”.
Ngoài ra, với số lượng giảng viên toàn thời gian nhà trường công khai, ngành Hệ thống thông tin quản lý có 9 thạc sĩ.
Khoản 2, Điều 1 Thông tư số 12/2024/TT-BGDĐT bổ sung các khoản 7 và 8 vào Điều 4 Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.
Giảng viên có chuyên môn phù hợp quy định tại khoản 2 Điều này là giảng viên đáp ứng tiêu chuẩn quy định trong chuẩn chương trình đào tạo và một trong các yêu cầu sau:
a) Có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ ngành phù hợp theo quy định tại khoản 8 Điều 4 Thông tư này;
b) Có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ thuộc ngành được Hội đồng khoa học và đào tạo của cơ sở đào tạo xác định phù hợp để chủ trì giảng dạy ít nhất 02 học phần cốt lõi trong một thành phần của chương trình đào tạo, đồng thời đã có ít nhất 02 năm kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy trọn vẹn các học phần đó.
Trong khi đó, khoản 1, 2, Điều 4 Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ nêu rõ, điều kiện mở ngành đào tạo trình độ đại học yêu cầu: “Có ít nhất 01 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu có kinh nghiệm quản lý đào tạo hoặc giảng dạy đại học tối thiểu từ 03 năm trở lên chịu trách nhiệm chủ trì xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình đào tạo.
Có ít nhất 05 tiến sĩ là giảng viên cơ hữu có chuyên môn phù hợp để chủ trì giảng dạy chương trình (tính cả tiến sĩ ngành phù hợp), trong đó mỗi thành phần của chương trình đào tạo phải có giảng viên với chuyên môn phù hợp chủ trì giảng dạy”.
Lý giải về vấn đề này, Hiệu trưởng nhà trường cho biết, thực tế giảng viên đang công tác tại khoa này song chuyên môn đào tạo có thể phù hợp với nhiều ngành ở các khoa khác nhau. Việc mở ngành đào tạo phải dựa trên đề án cụ thể và sử dụng nguồn lực chung của nhà trường; nếu đề án không đáp ứng yêu cầu, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xem xét dừng tuyển sinh ngành đó.
Đặc biệt, hệ thống quản lý HEMIS kiểm soát rất chặt chẽ chỉ tiêu theo từng ngành, đặc biệt về số lượng giảng viên, trình độ, bằng cấp và chuyên môn. Hiện nhà trường có nhiều tiến sĩ ngành phù hợp, cùng 3-4 tiến sĩ thuộc mảng về Hệ thống được đào tạo tại Hàn Quốc, mới về trường trong khoảng 3 năm gần đây nên năng lực đội ngũ của ngành là hoàn toàn bảo đảm.
Cơ sở vật chất chưa đạt chuẩn do chưa liệt kê đủ
Tiêu chí 3.1, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: Từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 25 m², đối với các trường ở thành phố trực thuộc Trung ương là 10 m².
Theo bảng các chỉ số đánh giá về cơ sở vật chất, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế có tổng 70.200 m² diện tích đất; trong đó có 67.615,3 m² tại trụ sở chính và 2.584,7 m² tại cơ sở 2. Diện tích đất/người học là 9,35 m² ở năm 2024 và giảm xuống còn 8,53 m² ở năm 2025, chưa đạt chuẩn theo quy định đối với các trường ở thành phố trực thuộc Trung ương. Diện tích sàn/người học là 3,15 m² năm 2024 và giảm xuống còn 2,87 m² ở năm 2025.
Chia sẻ về nguyên nhân khiến chỉ số diện tích đất/người học năm 2025 thấp hơn năm 2024, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân cho biết số liệu thống kê trong báo cáo chưa đầy đủ. Hiện nay, nhà trường có thêm 2.000 m² thuộc Trung tâm Học liệu - cơ sở vật chất dùng chung của Đại học Huế. Tuy nhiên, do Báo cáo thường niên năm 2024-2025 được ban hành vào tháng 7/2025 nên chưa kịp ghi nhận phần diện tích dùng chung này dẫn đến số liệu bị thiếu. Nhà trường đã ghi nhận và sẽ cập nhật trong báo cáo tháng 12/2025.
Bên cạnh đó, trong tháng 11/2025, nhà trường đã đưa vào sử dụng thư viện 5 tầng với diện tích khu đất là 9.020 m², diện tích sàn là 4.809 m². Việc hoàn thiện công trình này đã giúp chỉ số cơ sở vật chất của nhà trường tiệm cận hơn với chuẩn của cơ sở giáo dục đại học.
Chứng chỉ tiếng Anh là “điểm khó” khiến sinh viên tốt nghiệp không đúng hạn
Tiêu chí 5.3, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: Tỷ lệ tốt nghiệp, được xác định bằng tỷ lệ người học tốt nghiệp trong thời gian không chậm quá 2 năm so với kế hoạch học tập chuẩn, không thấp hơn 60%; tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn không thấp hơn 40%.
Theo bảng quy mô đào tạo, tuyển mới và tốt nghiệp năm học 2024-2025, trình độ đại học của Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế có 7411 sinh viên đang theo học, tuyển mới 2372 sinh viên và 1725 sinh viên tốt nghiệp. Đối với đào tạo sau đại học, trình độ thạc sĩ có 158 học viên đang theo học, 131 học viên tuyển mới và 69 học viên tốt nghiệp. Trình độ tiến sĩ có 10 nghiên cứu sinh đang theo học và tuyển mới 33 nghiên cứu sinh.
Theo bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp của nhà trường đạt 73% (giảm 16,5% so với năm học 2023-2024); trong đó có 55,6% sinh viên tốt nghiệp đúng hạn.
Lý giải về nguyên nhân khiến một bộ phận sinh viên tốt nghiệp không đúng hạn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân cho biết: “Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ, do đó thời gian tốt nghiệp của sinh viên có sự phân hóa rõ rệt. Theo thống kê ước tính, dù chưa được đưa vào báo cáo chính thức, khoảng 50% sinh viên có thể tốt nghiệp sớm sau từ 3-3,5 năm học; khoảng 30% sinh viên tốt nghiệp đúng thời hạn, trong khi khoảng 20% sinh viên tốt nghiệp muộn. Nhà trường xây dựng lịch học, điều kiện và lộ trình đào tạo linh hoạt, phù hợp với năng lực từng sinh viên, tạo điều kiện để những sinh viên có học lực tốt rút ngắn thời gian học tập.
Ngoài ra, nguyên nhân khiến một bộ phận sinh viên tốt nghiệp không đúng hạn chủ yếu do chưa tích lũy đủ số tín chỉ theo quy định; một số sinh viên theo học thêm văn bằng hai nên thời gian học tập bị phân tán. Bên cạnh đó, vẫn còn sinh viên chưa đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra ngoại ngữ. Trước thực tế này, trong thời gian tới, nhà trường sẽ tăng cường đào tạo và hỗ trợ ngoại ngữ, qua đó nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn”.
Cũng theo bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, tỉ lệ người tốt nghiệp có việc làm đúng chuyên môn sau khi ra trường năm học 2024-2025 của Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế là 86,25%. Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Tấn Quân đánh giá, đây là một trong những thế mạnh nổi bật của nhà trường.
Nhà trường đã đẩy mạnh gắn kết với doanh nghiệp, triển khai mô hình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động và phối hợp đào tạo cùng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sinh viên năm cuối còn được tạo điều kiện tham gia các chương trình thực tập ở nước ngoài tại các trường đại học và doanh nghiệp tại Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc… Thời gian thực tập kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm, sau đó sinh viên trở về trường hoàn thành báo cáo hoặc khóa luận tốt nghiệp và có cơ hội quay lại các đơn vị thực tập để làm việc.
Là cơ sở đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực kinh tế, nhà trường cũng đặc biệt chú trọng thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ sinh viên hình thành ý tưởng và triển khai các dự án startup ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường.
Hướng đi này không chỉ mở rộng cơ hội việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Thông qua việc triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, nhà trường từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và khả năng đáp ứng việc làm của sinh viên sau khi ra trường.