LTS: Luật Giáo dục đại học được Quốc hội thông qua và ban hành năm 2012, đến nay một số nội dung của Luật này đã không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Được biết Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học vào năm 2018 nhằm gỡ bỏ các nút thắt phát triển đại học.
Trên tinh thần đó, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Giáo sư Lâm Quang Thiệp – nguyên Vụ trưởng vụ Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) với mong muốn có thêm một số góp ý trước khi Luật Giáo dục đại học chính thức sửa đổi, bổ sung.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả cuộc trao đổi này.
Phóng viên: Sắp tới, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ thông qua Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học. Theo Giáo sư, Bộ cần tập trung sửa đổi ở những nội dung nào?
Giáo sư Lâm Quang Thiệp: Theo tôi, việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học cần dựa trên 2 căn cứ:
Thứ nhất, về đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, thể hiện ở Nghị quyết 29/NQ-TW năm 2013 về đổi mới giáo dục và Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính phủ năm 2005 về đổi mới Giáo dục đại học.
Thứ hai là thông lệ quốc tế (nhằm tăng cường hội nhập về giáo dục đại học).
Dựa trên các căn cứ đó, trước hết cần lưu ý đến các ý kiến chung sau đây.
Luật Giáo dục đại học năm 2012 với phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng được quy định ở Điều 1 và Điều 2 thực chất là Luật về các cơ sở giáo dục đại học.
Do đó, với tên gọi “Luật Giáo dục đại học”, Luật cần có tầm bao quát rộng hơn, phải là luật về hệ thống giáo dục đại học (trong đó có các cơ sở Giáo dục đại học).
Chính vì vậy, cần bổ sung vào luật mới một vài chương bao quát hơn về giáo dục đại học như:
Giáo sư Lâm Quang Thiệp (Ảnh: Thùy Linh) |
Một chương ở đầu về “hệ thống Giáo dục đại học”, mô tả cơ cấu hệ thống giáo dục đại học, các chuẩn giáo dục đại học quốc gia, các trình độ đào tạo, hệ thống văn bằng, các loại cơ sở giáo dục đại học, mạng lưới các tổ chức xã hội và nghề nghiệp về giáo dục đại học;
Một chương ở gần cuối về “Xã hội và giáo dục đại học” nêu các nguyên tắc bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục đại học của mọi công dân, về trách nhiệm và quyền lợi của công dân, về vai trò của các tổ chức xã hội và nghề nghiệp đối với giáo dục đại học.
Ông có kiến nghị cụ thể về từng nội dung cần sửa đổi, bổ sung ở Luật Giáo dục đại học 2012 như thế nào, thưa Giáo sư?
Giáo sư Lâm Quang Thiệp: Tôi có một vài đề nghị cụ thể như sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của giáo dục đại học.
Điều 5 của Luật Giáo dục đại học hiện hành chỉ nêu mục tiêu đào tạo. Thực ra giáo dục đại học không chỉ có mục tiêu đào tạo mà còn mục tiêu nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Đề nghị bổ sung thêm các mục tiêu còn thiếu vào Luật Giáo dục đại học sửa đổi.
Thứ hai, về khái niệm phân tầng và xếp hạng giáo dục đại học.
Chúng ta không nên làm lẫn lộn hai khái niệm phân tầng và xếp hạng giáo dục đại học bằng cách đưa “xếp hạng” vào cùng Điều 9 về phân tầng.
Sự nhầm lẫn đó còn thể hiện rõ hơn ở Nghị định 73/2015/NĐ-CP về phân tầng và xếp hạng.
Hiệp hội mời dự hội thảo góp ý sửa đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học |
Bởi “phân tầng” giáo dục đại học dựa vào sứ mạng, chức năng của từng cơ sở giáo dục đại học.
Đó là trách nhiệm của Nhà nước để điều phối hệ thống giáo dục đại học phục vụ tốt sự phát triển kinh tế xã hội.
Còn “xếp hạng” thì dựa vào chất lượng, uy tín của cơ sở giáo dục đại học.
Đó là việc của các cộng đồng có lợi ích liên quan đến giáo dục đại học, nhằm cung cấp thông tin phục vụ việc lựa chọn sản phẩm của các cơ sở giáo dục đại học.
Do đó không đặt thể vấn đề “chuyển tầng” đối với các cơ sở giáo dục đại học, trong khi mọi cơ sở đều cần phấn đấu để chuyển lên các “hạng” cao hơn.
Với tinh thần đó, cũng không nên hành chính hóa việc xếp hạng, cần bỏ quy định ở Khoản 5 Điều 9 về việc công nhận kết quả xếp hạng của Thủ tướng và Bộ trưởng.
Sau khi sửa các quy định về phân tầng và xếp hạng ở Luật Giáo dục đại học, cũng cần sửa Nghị định 73/2015/NĐ-CP.
Thứ ba, về quyền tự chủ của trường đại học và việc quản lý nhà nước của các cơ quan cấp trên.
Rõ ràng, Hội đồng trường là một thể chế quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ của trường đại học.
Muốn Hội đồng trường thực sự có quyền lực, ở nhiều nước quy định Hội đồng trường có quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm Hiệu trưởng.
Trong điều kiện nước ta, ở Luật Giáo dục đại học sửa đổi nên quy định Hội đồng trường có quyền đề nghị bổ nhiệm và miễn nhiệm Hiệu trưởng (và cơ quan cấp trên sẽ phê duyệt).
Ngoài ra, Nghị quyết 14/2005/NQ-CP từ năm 2005 đã quy định xóa bỏ cơ chế bộ “chủ quản”, trường “trực thuộc”, vì cơ chế đó hạn chế quyền tự chủ của trường đại học. Tuy nhiên cho đến nay cơ chế đó vẫn chưa bị xóa bỏ.
Cho nên Luật Giáo dục đại học sửa đổi nên quy định các cơ quan cấp trên của trường đại học chỉ thực hiện quản lý nhà nước đối với trường đại học và có đại diện trong hội đồng trường, chứ không quản lý trực tiếp.
Thứ tư, về quản trị các đại học tư thục.
Nghị quyết 29/NQ-TW đã thể hiện sự coi trọng khu vực giáo dục đại học tư thục và chỉ đạo “Tăng tỉ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học” (từ giải pháp thứ 4 của Nghị quyết).
Tuy nhiên các văn bản luật pháp, kể cả Luật giáo dục đại học hiện hành chưa thể hiện sự coi trọng đó. Chính vì vậy sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học tư thục đã gặp rất nhiều trở ngại.
Chúng ta, cần phân biệt rành rọt hai loại cơ sở giáo dục đại học tư thục vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận.
Hiệu trưởng nhiều trường đại học không muốn chia sẻ quyền lực |
Trường vì lợi nhuận thuộc sở hữu tư nhân, còn trường không vì lợi nhuận thuộc sở hữu cộng đồng, mọi điều quy định phải phù hợp với tính chất sở hữu của chúng.
Đại học tư vì lợi nhuận thuộc sở hữu tư nhân, thực chất là một doanh nghiệp tư nhân, nhưng trong Luật Giáo dục đại học hiện hành có những quy định không phù hợp với tính chất đó.
1) Về tổ chức, khoản 3b điều 17 quy định trong hội đồng quản trị có đại diện của chính quyền địa phương. Đề nghị bỏ quy định này.
2) Về quản lý tài chính, khoản 4 điều 66 quy định: “Giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở giáo dục đại học … là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển”.
Quy định này là một cản trở lớn đối với sự phát triển của các cơ sở giáo dục đại học tư, vì nó không đảm bảo quyền sở hữu tư nhân của loại hình trường này.
Với điều khoản này, nhiều người nghĩ là ngành giáo dục không “thực tâm” mong muốn phát triển thành phần tư nhân trong giáo dục đại học. Tôi cũng đề nghị bỏ quy định vừa nêu.
Đối với đại học tư không vì lợi nhuận: Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ từ năm 2005 đã tuyên bố Nhà nước khuyến khích loại hình trường này.
Thế nhưng cho đến Luật Giáo dục đại học năm 2012 mới nêu một định nghĩa sơ sài về cơ sở giáo dục đại học tư không vì lợi nhuận.
Tôi đề nghị nêu chính thức loại hình này trong phần mô tả các loại hình cơ sở giáo dục đại học chứ không chỉ trong phần định nghĩa ban đầu.
Vì tính chất sở hữu cộng đồng của đại học tư không vì lợi nhuận, cần chú ý hai đặc trưng quan trọng của loại đại học này:
1) Không chia lợi nhuận cho cổ đông (hoặc chấp nhận một mức lợi nhuận thấp);
2) Trong hội đồng trường phải có đại diện của các bên có lợi ích liên quan (stakeholders), đặc biệt là thành phần bên ngoài trường đại học.
Về thuật ngữ được sử dụng trong Luật, ông có ý kiến gì không?
Giáo sư Lâm Quang Thiệp: Trong Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục có một số thuật ngữ không chính xác, làm hiểu sai khái niệm, đã được đề nghị sửa nhiều lần nhưng vẫn chưa được chấp nhận, do “thói quen”.
Xin lưu ý hai trường hợp:
- Thuật ngữ “tự chịu trách nhiệm” trong cặp khái niệm “tự chủ và tự chịu trách nhiệm”.
Thực ra đây là cặp khái niệm sóng đôi của giáo dục đại học thế giới (autonomy và accountability), đã được đưa vào Luật Giáo dục đầu tiên của nước ta vào năm 1998.
Thuật ngữ “tự chủ” không có vấn đề, nhưng thuật ngữ “tự chịu trách nhiệm” sai về ý nghĩa so với từ gốc tiếng Anh, gây hiểu lầm.
Thuật ngữ “accountability” gốc được định nghĩa là trách nhiệm làm cho các phía có lợi ích liên quan (stakeholder) với trường đại học (nhà nước, sinh viên, giáo chức, người sử dụng sản phẩm của trường đại học…) biết nhà trường hoạt động như thế nào.
Luật giáo dục còn hạn chế, chưa theo kịp thực tiễn |
Trong khi thuật ngữ “tự chịu trách nhiệm” nếu được hiểu theo cách thông thường thì nghĩa gần như ngược lại:
Nhà trường phải “tự” chịu lấy trách nhiệm hoạt động của mình, không cần và cũng không nhờ ai can thiệp.
Khi thực hiện Luật Giáo dục rất mất công giải thích khái niệm này. Do đó, tôi kiến nghị dịch “accountability” thành “trách nhiệm giải trình”.
- Về thuật ngữ “đại học” để chỉ loại hình đại học đa lĩnh vực (university) cũng không ổn.
Bất cứ trường đại học nào trong cách nói thông thường thì từ “trường” cũng bị giản lược (chẳng hạn người ta thường nói tắt “Đại học Bách khoa”, chứ ít khi nói đầy đủ “trường Đại học Bách khoa”…), tức là người ta không chịu dành riêng từ “đại học” để chỉ loại university.
Nhiều chuyên gia giáo dục đề nghị gọi university là viện-đại-học, vì thuật ngữ này đã được dùng ở nước ta trước đây (trước năm 1945 ở nước ta đã có Viện đại học Đông Dương, và trước năm 1975 ở miền Nam các university đều được gọi là viện đại học: Viện đại học Sài Gòn, Viện đại học Huế…).
Sử dụng thuật ngữ viện-đại-học để gọi university vừa phù hợp với lịch sử, vừa trách được sự khiên cưỡng về ngôn ngữ.
Với thuật ngữ viện-đại-học như vậy, viện đại học không nhất thiết chỉ gắn với “quốc gia” hoặc “vùng”, và không nhất thiết “tổ chức theo hai cấp” như khoản 8 điều 4 Luật Giáo dục đại học hiện hành.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Trân trọng kính mời bạn đọc góp ý về việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học. Mọi ý kiến độc giả gửi về Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam qua hòm thư điện tử: toasoan@giaoduc.net.vn. |