Lâu nay không ít học sinh ngại môn Lịch sử, cho đó là môn phải học thuộc lòng với quá nhiều kiến thức về sự kiện, số liệu, nhân vật, nguyên nhân, diễn biến, kết quả... với bao nhiêu giai đoạn, thời kỳ.
Vì thế với môn Lịch sử, các em cảm thấy thiếu hứng thú, học một cách thụ động.
Chương trình môn Lịch sử hiện hành nặng về kiến thức cụ thể hơn là kỹ năng, phương pháp phân tích, đánh giá nên việc kiểm tra và đánh giá cũng thiên về “trả bài” hơn thông hiểu, vận dụng, liên hệ thực tế.
Điều đó, vô hình chung làm cho các em hiểu lịch sử đơn giản chỉ là nhớ những gì xảy ra trong quá khứ, những chuyện đã qua từ lâu, không liên hệ gì đến hiện tại và càng không có liên quan gì đến tương lai.
Vấn đề chất lượng dạy và học lịch sử ở các trường phổ thông còn nhiều hạn chế liệu có liên quan gì đến điều này hay không?
Trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Vũ Minh Giang – Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng, học môn Lịch sử ở bậc phổ thông không phải chỉ dành cho những người thi vào đại học thuộc các ngành khối C.
Càng không phải chỉ cần cho những người có định hướng sử học. Các nhà sử học luôn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với các nghề khác trong xã hội.
Điều cần phải sớm nhận ra là tri thức lịch sử là vốn tối cần thiết cho mọi công dân, nhất là là những người về sau trở thành lãnh đạo.
Vậy tri thức lịch sử dùng để làm gì mà quan trọng như vậy?
Giáo sư Vũ Minh Giang nhận định: “Chúng ta dạy như thế thì hỏi sao học trò không chán môn Lịch sử. (Ảnh: Giáo sư Vũ Minh Giang cung cấp) |
Theo Giáo sư Vũ Minh Giang: “Tri thức lịch sử, phương pháp tư duy lịch sử trang bị cho công dân hiểu về dân tộc mình, nắm được đâu là sở trường, đâu là sở đoảng để có cách tư duy và ứng xử phù hợp, đặng phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế…
Nói tóm lại lịch sử là khoa học giúp một dân tộc tự nhận thức đúng về mình.
Tri thức lịch sử còn giúp chúng ta hiểu người và biết cách học người. Nói cách khác đó chính là cái “túi khôn”mà mỗi công dân cần nắm được như một hành trang vào đời.
Nhưng muốn học sinh đạt được những điều trên đây thì việc xây dựng chương trình và việc giảng dạy cần phải như thế nào?
Lâu nay, chúng ta chưa chú ý đúng mức đến tâm lý và năng lực tiếp thu theo lứa tuổi.Đôi khi vẫn vẫn phân kỳ lịch sử theo lớp, cấp khiến cho phần khó (cổ - trung đại) lại học ở lớp nhỏ tuổi và phần tương đối dễ nhận biết (cận – hiện đại) lại học ở lớp trên.
Đó là chưa kể ở Tiểu học, Trung học cơ sở học môn Lịch sử chỉ học một cách lớt phớt đến khi lên bậc Trung học phổ thông thì môn Sử lại được “nhồi nhét” cho một nhóm học sinh theo khối C (Văn, Sử, Địa) còn các khối khác thì chỉ học cho qua, thậm chí bỏ hẳn.
Ông Giang nhận định: “Chúng ta dạy như thế thì hỏi sao học trò không chán môn Lịch sử.
Khi nào chúng ta coi môn học này như là nội dung trang bị, là phương pháp tư duy, chuyển hóa trong tình cảm, phát triển nâng cao trong ý thức đối với đất nước, dân tộc, vận mệnh của nhân dân thì mới có niềm tin rằng học trò yêu thích môn Lịch sử”.
Hơn nữa, với cách “tiếp cận nội dung” như hiện nay thì việc thi cử, đánh giá dù ở dạng tự luận hay trắc nghiệm đều là đánh đố trí nhớ của học sinh, cũng đều bắt học trò phải thuộc nội dung nào đó trong sách giáo khoa.
Hậu quả của cách thi cử, đánh giá này đối với môn sử chúng ta đã thấy rõ. Đạt kết quả cao sẽ thuộc về 3 kiểu người.
Thứ nhất, đó là những người chăm chỉ, học thuộc lòng được tất những gì có trong sách giáo khoa, hỏi nội dung nào thuộc nội dung đó nên họ đạt điểm cao nhất trong kỳ thi. Đây chính là những “con vẹt” siêu đẳng.
Thứ hai, đó là những học trò đạt điểm cao nhưng không chăm chỉ như tuýp trên mà rất giỏi “học tủ”. Nếu gặp may đề ra trúng tủ thì họ sẽ đạt điểm rất cao. Còn ngược lại thì chắc chắn nhận điểm 0.
Thứ ba, đó cũng là học trò đạt điểm cao nhưng không có “năng lực và phẩm chất vẹt”, cũng không thèm đoán tủ mà trổ tài tinh quái, gian xảo bằng các thủ đoạn quay cóp, trò gian lận trong thi cử này mà trót lọt thì họ cũng nghiễm nhiên đứng trong hàng ngũ “trò giỏi”, đôi khi còn đỗ thủ khoa cũng nên (!).
Liệu chúng ta có cần 3 kiểu người này không? Chắc chắn là không, nhưng với cách học, cách thi như hiện nay thì không loại bỏ được những kiểu người không mong đợi này. Nếu chúng ta không sớm tìm cách ngăn chặn thì đây chính là hiểm họa của xã hội.
Chúng ta bắt học sinh phổ thông học vi phân, tích phân để làm gì? |
Nói đến đây, thầy Giang thông tin thêm: “Không riêng gì môn Lịch sử mà ngay ở môn Văn cũng đã từng có chuyện cười ra nước mắt . Dư luận hẳn vẫn chưa quên chuyện mùa thi năm 2006 cả nước chỉ có 1 bài văn duy nhất đạt điểm 10.
Sau khi báo chí công bố toàn văn bài thi của học sinh này thì mới vỡ lẽ rằng đó là bài văn mẫu in trong sách Kiến thức cơ bản văn học 12.
Trong trường hợp này, đây có phải là học sinh giỏi văn nhất cả nước không? Chắc chắn không. Đó chỉ là một con vẹt may mắn”.
Do vậy, muốn ngăn chặn những hiểm họa này thì trước tiên, chúng ta cần thay đổi căn bản về nhận thức, tư duy chứ đừng chỉ thay đổi mang tính chất bề mặt theo kiểu thay vì thầy đọc, trò chép để chuyển sang kiểu thầy cô ngồi bấm powerpoint còn học sinh ngồi chép.
“Không thể chữa trọng bệnh nặng bằng cách xoa dầu cao được”, thầy Giang mượn hình ảnh để so sánh.
Môn Lý rất quan trọng nhưng không dạy học trò ý thức dân tộc
Trong bối cảnh thông tin bùng nổ, các mối quan tâm của giới trẻ học đường nhiều như hiện nay thì chúng ta cần nhanh chóng phải chuyển từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận phương pháp, kỹ năng và nâng cao năng lực, phẩm chất dựa trên nền kiến thức cơ bản nhưng tối thiểu.
Và điều mà Giáo sư Vũ Minh Giang trăn trở nhất đó là trách nhiệm của người quản lý cần hiểu và phân định được vị trí của các môn học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Riêng môn Lịch sử, thầy Giang cho rằng, nếu chỉ coi đây là môn trang bị kiến thức của quá khứ thì chưa đủ mà đây còn là môn học giáo dục chủ nghĩa yêu nước thông qua việc tác động tình cảm với dân tộc, với truyền thống của đồng bào và trang bị kiến thức nhìn ra thế giới cho thế hệ trẻ.
Do vậy, muốn học trò yêu thích môn lịch sử thì Phó Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng, cả xã hội hãy chung tay cùng ngành giáo dục làm sao để các em được sống lại với diễn biến của lịch sử.
Tức là làm sao để từng bài giảng phải gắn liền với không gian, thời gian về thời kỳ đó thông qua bảo tàng, hình ảnh sinh động…
Giáo sư Vũ Minh Giang tha thiết: “Tôi kêu gọi các nhà hoạch định chính sách làm sao để có nhiều phim, nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật tái hiện lịch sử sinh động hơn nữa chứ như hiện nay thì nghèo nàn quá. Có như vậy mới thắp ngọn đuốc đam mê học tập môn Lịch sử cho các em”.