Các nghiên cứu mới cho thấy gần 5% phụ nữ trong độ tuổi từ 20 đến 44 đã phải vật lộn với trầm cảm nặng và 4% trong nhóm tuổi đó bị trầm cảm nhẹ.
Nhưng những người đang bị trầm cảm vẫn chưa được chăm sóc một cách hợp lí. Chỉ khoảng 1/3 số phụ nữ bị trầm cảm nặng đang được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm. Đối với những người bị trầm cảm nhẹ, chỉ có 20% đã được dùng thuốc chống trầm cảm.
Cứ 20 người phụ nữ trẻ thì có 1 người phải trải qua trầm cảm. |
Phó giáo sư - Tiến sĩ Alexander Butwick, chuyên khoa phẫu thuật ở Trường Y thuộc Đại học Stanford ở California (Mỹ), tác giả nghiên cứu, cho biết: "Trầm cảm ảnh hưởng lớn đến phụ nữ trong những năm sinh đẻ và cuộc sống về sau của họ”.
Butwick cho biết: “Để hạn chế số lượng những phụ nữ bị trầm cảm trong thời kì phụ nữ mang thai. Chúng tôi cần phải cải thiện tối ưu việc chăm sóc trước khi phụ nữ có thai.
Thực hiện tư vấn và điều trị đúng cách trước khi mang thai, điều này có thể giúp giảm nhẹ tình trạng trầm cảm trong thời kì này”.
Theo các nhà nghiên cứu, gần 13% phụ nữ bị trầm cảm nặng trong thai kỳ. Vấn đề này có thể gây ra nhiều hậu quả khôn lường như: Hành vi tự tử của người mẹ, sự phát triển của trẻ sơ sinh, sự phát triển sớm và sự liên kết giữa mẹ và con…
“Hơn một nửa số phụ nữ bị trầm cảm trong thời kì mang thai cũng đã bị trầm cảm trước khi mang thai”, các nhà nghiên cứu cho biết.
Bí quyết đánh bại căng thẳng, vô cùng đơn giản nhưng rất hiệu quả |
Vì vậy, nên có một kế hoạch điều trị trước khi bị trầm cảm vào thời kì mang thai ở phụ nữ.
Nhưng 50% phụ nữ mang thai ở Hoa Kỳ không có kế hoạch để điều trị trước chứng trầm cảm này.
Đó là lý do khiến các tác giả nghiên cứu muốn xem có bao nhiêu phụ nữ đang đối mặt với chứng trầm cảm trong suốt những năm sinh sản.
Butwick cho biết: "Trầm cảm nếu không kiểm soát được, có thể ảnh hưởng đến người phụ nữ và kết quả mang thai của cô ấy. Nếu bạn biết trước một vấn đề, bạn sẽ có thời gian để lên kế hoạch chống lại nó”.
Nghiên cứu bao gồm dữ liệu từ cuộc điều tra đại diện toàn quốc về tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng ở Hoa Kỳ. Dữ liệu được thu thập liên tục trong chu kỳ hai năm. Đối với nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu xem xét từ năm 2007 đến năm 2014.
Cuộc khảo sát bao gồm nhiều câu hỏi để xác định đối tượng mắc chứng trầm cảm, những câu hỏi được đặt ra: Bạn có cảm thấy mệt mỏi hoặc có ít năng lượng không? Bạn có suy nghĩ rằng bạn sẽ được một cuộc sống tốt không? Bạn có muốn làm tổn thương mình một cách nào đó?
Kết quả dữ liệu chỉ rõ phụ nữ tuổi từ 20 đến 44 là độ tuổi phụ nữ mang thai, vì vậy đó là nhóm tuổi các nhà nghiên cứu nhằm mục tiêu. Họ đã loại trừ phụ nữ có thai và những người sinh con trong 12 tháng qua.
Cuộc nghiên cứu kết thúc với 3.705 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, kết quả cho thấy có 5% đã bị trầm cảm nặng.
Các yếu tố dẫn đến trầm cảm chủ yếu gồm có huyết áp cao, hút thuốc lá, áp lực cuộc sống, tâm lí tình cảm...
Tiến sĩ Chris Karampahtsis l - một bác sĩ tâm thần học tại Bệnh viện NYU Winthrop ở Mineola, New York, người giúp giám sát chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần của phụ nữ cho biết: “Trầm cảm là có thể điều trị được. Nhưng thật đáng buồn, qua nghiên cứu cho thấy một số phụ nữ không hề được điều trị hay quan tâm khi bị chứng trầm cảm”.
Đặc biệt ông Chris Karampahtsis nói rằng, mối lo ngại hiện nay là khoảng 1/4 người trưởng thành bị các triệu chứng trầm cảm nhẹ đang dần bị trầm cảm nặng hơn.
Nhưng nếu có những biện pháp phù hợp kịp thời có thể mang lại kết quả rất khả quan để hạn số lượng và tác hại mà chứng trầm cảm gây ra.