Nhiều băn khoăn môn tích hợp, Ban phát triển chương trình đâu rồi?

20/09/2022 06:40
NGUYỄN NGUYÊN
GDVN- Lúc này, mỗi môn học tích hợp rất cần một “đạo diễn” nhưng Ban phát triển chương trình đã giải tán sau khi thông qua chương trình môn học từ năm 2018.

Năm học 2022-2023 là năm thứ 3 triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 nhưng là năm thứ 2 thực hiện ở cấp trung học cơ sở và năm đầu tiên ở cấp trung học phổ thông.

Trong rất nhiều môn học đang triển khai giảng dạy ở lớp 6, lớp 7 và lớp 10, có lẽ tâm trạng chung của nhiều thầy cô giáo đang trực tiếp giảng dạy ở các nhà trường đều lo lắng cho chất lượng các môn học tích hợp.

Bỏ qua phần điểm số, bỏ qua những mĩ từ và một số ưu điểm mà lãnh đạo Bộ và các tác giả chương trình, tác giả sách giáo khoa đã từng chia sẻ thì học sinh sẽ học được gì từ những môn học tích hợp vẫn là điều trăn trở của nhiều người.

Nhiều thầy cô giáo dưới cơ sở không sợ khó, không sợ khổ, không sợ vất vả mà lo lắng phía sau những bài giảng của mình học sinh có lĩnh hội được những kiến thức, những mục tiêu mà chương trình mới đã đề ra hay không?

Bởi lẽ, kiến thức các phân môn rời rạc, chắp vá, nhiều khi học xong phân môn này đến mấy tháng sau mới học lại thì liệu học sinh có còn nhớ được những kiến thức đã học hay không?

Môn Khoa học tự nhiên hiện đang có nhiều bất cập nhất (Ảnh: Nhật Duy)

Môn Khoa học tự nhiên hiện đang có nhiều bất cập nhất (Ảnh: Nhật Duy)

Thách thức về chất lượng những môn học tích hợp

Trong 3 cấp ở bậc phổ thông, cấp trung học cơ sở là cấp học có nhiều môn học tích hợp nhất (môn Khoa học tự nhiên; Lịch sử và Địa lý; Nghệ thuật; Nội dung giáo dục địa phương) và cũng vì thế mà phức tạp nhất. Mọi khâu để thực hiện chương trình mới gần như đang thiếu thốn, bất cập.

Giáo viên đa phần được đào tạo đơn môn ở các trường sư phạm nhưng ở thời điểm hiện tại, ở cấp trung học cơ sở chỉ còn một số ít môn học độc lập, còn lại đa phần đã được “tích hợp” một cách khiên cưỡng.

Môn Khoa học tự nhiên được “tích hợp” từ 3 môn: Vật lý, Hóa học, Sinh học; môn Lịch sử và Địa lý được tích hợp từ 2 môn học: Lịch sử và môn Địa lý; môn Nghệ thuật được tích hợp từ 2 môn: Âm nhạc và Mĩ thuật; Nội dung giáo dục địa phương được tích hợp từ 6 phân môn: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân, Âm nhạc, Mĩ thuật.

Trong các môn học tích hợp ở cấp trung học cơ sở có lẽ rối nhất là môn Khoa học tự nhiên đang được bố trí 140 tiết học/ năm.

Cái khó của môn Khoa học tự nhiên hiện nay là phần lớn các trường chưa có giáo viên tích hợp và họ cũng chưa được bồi dưỡng kiến thức theo Quyết định số 2454/QĐ-BGDĐT (ban hành Chương trình bồi dưỡng giáo viên trung học cơ sở dạy môn Khoa học tự nhiên) của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Trong khi dưới cơ sở "rối như canh hẹ", 2 năm học vừa qua, Bộ ban hành một số công văn có liên quan đến các môn học tích hợp ở các thời điểm khác nhau nhưng nội dung đều khá giống nhau.

Đó là để triển khai nhiệm vụ cho năm học 2021-2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn 2613/BGDĐT-GDTrH và năm học 2022-2023 Bộ ban hành Công văn 1496/BGDĐT-GDTrH nhưng môn Khoa học tự nhiên đều được hướng dẫn như sau:

“a) Chương trình môn Khoa học tự nhiên bao gồm các chủ đề: Chất và sự biến đổi của chất, Vật sống, Năng lượng và sự biến đổi, Trái Đất và bầu trời. Các chủ đề được sắp xếp chủ yếu theo logic tuyến tính, có kết hợp ở mức độ nhất định với cấu trúc đồng tâm, đồng thời có một số chủ đề liên môn, tích hợp nhằm hình thành các nguyên lí, quy luật chung của thế giới tự nhiên.

Căn cứ tình hình đội ngũ giáo viên của nhà trường, hiệu trưởng phân công giáo viên dạy học các chủ đề phù hợp với năng lực chuyên môn của giáo viên. Nhà trường cần chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để giáo viên đáp ứng yêu cầu về chuyên môn đảm nhận việc dạy học các chủ đề hoặc toàn bộ chương trình môn học.

b) Kế hoạch dạy học môn học được xây dựng phù hợp với logic sắp xếp các chủ đề của chương trình môn học và điều kiện tổ chức dạy học của nhà trường. Căn cứ vào điều kiện thực tế, nhà trường có thể tổ chức dạy học đồng thời các chủ đề trong từng học kì, bảo đảm tính khoa học, sư phạm, phù hợp với nội dung môn học.

c) Việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên trong mỗi học kì được thực hiện trong quá trình dạy học môn học theo kế hoạch. Bài kiểm tra, đánh giá định kì được xây dựng gồm nội dung của các chủ đề đã thực hiện theo kế hoạch dạy học, bảo đảm tỷ lệ phù hợp với nội dung và thời lượng dạy học đến thời điểm kiểm tra, đánh giá”.

Với những hướng dẫn của Bộ chung chung như vậy, trong khi sách giáo khoa môn Khoa học tự nhiên chủ yếu được viết theo chủ đề, kiến thức của từng phân môn (Hóa học, Sinh học, Vật lý) mà đa phần các nhà trường chưa có nhân sự để 1 giáo viên có thể giảng dạy cả 3 phân môn.

Vì thế, bắt buộc nhà trường phải sắp xếp phân môn của thầy cô nào, thầy cô đó dạy. Từ đây, dẫn đến tình trạng mỗi tuần, học sinh có thể phải học 4 tiết Hóa, hoặc 4 tiết Sinh, 4 tiết Lí. Vì thế, học sinh có thể học xong phân môn này, phải mấy tháng sau mới học lại vì nhà trường bố trí cuốn chiếu theo từng phân môn.

Học sinh lớp 6, lớp 7 mà học như thế này thì các em có thể nhớ được kiến thức hay không? Học vài tuần rồi có khi bỏ cả mấy tháng sau mới học lại kiến thức đó, làm sao có thể liền mạch?

Tất nhiên, nếu như những học sinh có điều kiện thì những lớp “học thêm” có thể sẽ được thầy cô bổ trợ thêm nhưng những em không có điều kiện học thêm liệu các em có đảm bảo được mạch kiến thức hay không?

Điểm số của học trò, có lẽ Bộ không phải sợ vì học kiểu nào điểm số vẫn đẹp, thậm chí là rất đẹp.

Nhưng, chất lượng thật của giáo dục môn Khoa học tự nhiên nói riêng và các môn học tích hợp ở cấp trung học cơ sở nói chung sẽ là một thách thức cực lớn, nhất là khi các em bước vào cấp trung học phổ thông thì các môn học tích hợp sẽ được tách riêng thành những môn học độc lập.

Các môn học tích hợp đang thiếu một “tổng đạo diễn”

Xét về thực tế ở các nhà trường, phần lớn giáo viên dạy các môn học tích hợp ở các trường phổ thông hiện nay chưa thể cáng đáng được toàn bộ môn học nếu được phân công giảng dạy.

Nếu xét về chuẩn trình độ theo Luật Giáo dục năm 2019, giáo viên đơn môn hiện nay đứng ra dạy cả môn học tích hợp là không đủ chuẩn.

Xét về hướng dẫn của Quyết định số 2454/QĐ-BGDĐT và Quyết định số 2455/QĐ-BGDĐT thì giáo viên chưa đủ “điều kiện tối thiểu” để dạy các môn học tích hợp ở cấp trung học cơ sở.

Nhưng… giáo viên vẫn đang được phân công giảng dạy các môn học tích hợp. Họ vừa dạy, vừa “dò đường” và tất nhiên cũng không tránh được những băn khoăn nhất định.

Từ những môn học đứng độc lập suốt mấy chục năm qua, chương trình 2018 đem gộp chung một số môn học lại thành những môn học “tích hợp” mà ngay cả bản thân các tác giả chương trình, tác giả sách giáo khoa có học hàm, học vị cao cũng không tự tích hợp được.

Chương trình, sách giáo khoa các môn học tích hợp vẫn là phân môn nào, chuyên gia chuyên ngành đó viết, chẳng có ai là tác giả tích hợp. Sách giáo khoa cũng đang được bố trí từng phần riêng biệt.

Công văn 2613/BGDĐT-GDTrH và Công văn 1496/BGDĐT-GDTrH của Bộ hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ ở năm học trước và năm học này cũng không dám chỉ đạo bố trí giáo viên nào giảng dạy các môn học tích hợp mà chỉ hướng dẫn chung chung “hiệu trưởng phân công giáo viên dạy học các chủ đề phù hợp với năng lực chuyên môn của giáo viên”.

Vì thế, nhà trường và giáo viên rất khó khăn khi bố trí, sắp xếp nhân sự, thời khóa biểu cho các môn học tích hợp. Các em học sinh lớp 6, lớp 7 mới bước vào cấp trung học cơ sở có lẽ cũng ngơ ngác không hiểu vì sao 1 môn học, 1 cuốn sách giáo khoa mà 3 thầy cô giảng dạy, phải có tới 3 quyển vở ghi chép và 3 quyển vở làm bài tập.

Học được vài tuần thì thầy khác dạy kiến thức phân môn khác và bỏ hẳn mấy tháng trời, đến khi kiểm tra học kỳ lại thấy thầy vào ôn tập kiến thức từ đầu học kỳ để kiểm tra!

Chất lượng các môn học tích hợp sẽ đi về đâu? Lúc này, mỗi môn học tích hợp rất cần một “đạo diễn” nhưng Ban phát triển chương trình đã giải tán sau khi thông qua chương trình môn học từ năm 2018. Một số hướng dẫn, chỉ đạo của Vụ Giáo dục Trung học về các môn học tích hợp thì càng đọc càng rối…Rất mong những băn khoăn vướng mắc của thầy cô về việc giảng dạ, đánh giá môn tích hợp sẽ sớm được hướng dẫn một lối ra thích hợp và quan trọng nhất là thực sự đem lại chất lượng cho học sinh.

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

NGUYỄN NGUYÊN