Tại nhiệm vụ “Tập trung đầu tư hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và nâng cao tiềm lực nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục, đào tạo” của Nghị quyết 51/NQ-CP của Chính phủ có nêu:
“Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tăng cường nguồn lực đầu tư trọng tâm, trọng điểm đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học công lập ở một số ngành, nghề, lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế nhằm tạo đột phá, chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao gắn với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập quốc tế; chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ, chip bán dẫn và các ngành phục vụ phát triển các công nghệ chiến lược, then chốt”.
Có thể thấy rằng, việc đầu tư cho hệ thống giáo dục theo hướng hiện đại hóa, tập trung đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng. Trong đó có việc đầu tư về nghiên cứu khoa học, công nghệ, phát triển các lĩnh vực kinh tế số, kinh tế xanh, … đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp của nước ta.
Các ngành trọng điểm cần được đào tạo tại trường nghề theo đúng phân khúc của thị trường
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sỹ Nguyễn Phan Anh Quốc – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Ninh Thuận bày tỏ, vấn đề đầu tư cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp của nước ta có xu thế tăng nhưng vẫn chưa tương xứng với ngành nghề, lĩnh vực và chưa phù hợp với cách thức đầu tư.
Theo thầy Quốc, qua trải nghiệm và học tập tại trường nghề ở một số quốc gia trong khu vực như Malaysia, Singapore thì họ có đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị tốt hơn.
Có thể thấy rằng, để đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là đào tạo giáo dục nghề nghiệp về những lĩnh vực, ngành nghề khoa học kỹ thuật càng đòi hỏi cần trang bị nhiều máy móc, thiết bị hiện đại.
Tuy nhiên, thầy Quốc cho hay, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của nước ta còn quá nhiều nên sự phân bổ đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp đang bị dàn trải, không “thấm” vào đâu. Không những vậy, đào tạo nghề vẫn chưa thực sự gắn được với thị trường lao động; Sự tham gia của doanh nghiệp vào đào tạo còn hạn chế, chỉ một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do có chính sách gắn kết với cơ sở giáo dục nghề nghiệp nên đầu tư tích cực hơn.
Chính vì vậy, việc thực hiện sắp xếp, tinh gọn lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghiệp để ưu tiên đầu tư những lĩnh vực, ngành nghề trọng tâm, trọng điểm là rất cần thiết.
Trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, phải ưu tiên đầu tư những ngành nghề mới như trí tuệ nhân tạo, big data, …

Mặt khác, theo thầy Quốc, không giống với giáo dục đại học, việc đào tạo những ngành nghề mới này của giáo dục nghề nghiệp cần được đào tạo theo đúng định hướng thực hành, đào tạo đúng phân khúc với năng lực của người học sau khi tốt nghiệp ở trình độ trung cấp, cao đẳng.
Tại Trường Cao đẳng nghề Ninh Thuận, nhà trường đã có điều chỉnh chương trình để phù hợp với bối cảnh nhưng vẫn đúng theo phân khúc thị trường lao động đặt ra cho giáo dục nghề nghiệp. Theo đó, trường đã bổ sung các nội dung, chuyên môn liên quan đến công nghiệp 4.0 cho những ngành Điện, Điện tử và Cơ điện tử như cập nhật những nội dung cơ bản về bán dẫn (kiểm thử, đóng gói, …) vào chương trình đào tạo nhằm tạo cơ hội làm việc cho sinh viên sau khi tốt nghiệp được vào làm tại các doanh nghiệp về công nghệ, bán dẫn với những vị trí phù hợp.
Thầy Quốc cho rằng, việc tinh gọn, cấu trúc lại hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần theo hướng giảm đầu tư số lượng để đầu tư cho những cơ sở có tiềm năng phát triển sẽ nâng cao hiệu suất đầu tư.
Không những vậy, các chính sách về đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp cũng phải thay đổi. Trên thực tế, sự đầu tư của Nhà nước sẽ khó theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Do đó, sự tham gia của doanh nghiệp là rất cần thiết.
Cũng theo thầy Quốc, chúng ta cần tạo cơ chế để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ hơn. Theo đó, cần sớm có cơ chế đặt hàng, đấu thầu của các doanh nghiệp, tạo cơ chế thoáng hơn trong vấn đề xây dựng chương trình đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Đồng thời, phải có chế tài đối với các doanh nghiệp tuyển dụng lao động không qua đào tạo hoặc không tham gia vào đào tạo với trường nghề.
Giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đào tạo nhân lực chuyển đổi số và kinh tế xanh
Cùng bàn về nhiệm vụ trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đông – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ (tỉnh Bắc Ninh) đã đưa ra quan điểm về vấn đề “chú trọng các ngành, lĩnh vực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhất là các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật, công nghệ, chip bán dẫn và các ngành phục vụ phát triển các công nghệ chiến lược, then chốt” trong đào tạo và đầu tư đối với giáo dục nghề nghiệp.
Theo thầy Đông, hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực lành nghề cho nền kinh tế, đặc biệt là để đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh.

Trước hết, đây là nơi cung cấp đội ngũ kỹ thuật viên, chuyên viên thực hành – những người có khả năng làm việc trong môi trường số hóa. Thực tế cho thấy, các chương trình đào tạo nghề đang được cập nhật để tích hợp công nghệ số như AI, IoT, dữ liệu lớn hay thương mại điện tử. Đồng thời, kỹ năng số, từ cơ bản đến nâng cao cũng được tăng cường để người học có thể thích nghi nhanh với công việc trong tương lai.
Thứ hai, có thể nói cơ sở giáo dục nghề nghiệp chính là nơi ươm tạo lực lượng lao động biết ứng xử hài hòa với môi trường. Đơn cử như Trường Cao đẳng Lý Thái Tổ đang tham gia các dự án phát triển với mục tiêu đưa các nội dung về kỹ năng xanh, sử dụng năng lượng hiệu quả, tái chế và sản xuất sạch hơn vào các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để hình thành tư duy phát triển bền vững và tuần hoàn cho lực lượng lao động trong tương lai.
Thứ ba, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng là cầu nối rất quan trọng giữa đào tạo và thị trường lao động. Khi các chương trình được thiết kế sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, có lồng ghép đào tạo tại nơi làm việc và hợp tác chuyển giao công nghệ mới sẽ giúp người học không chỉ học lý thuyết mà còn có trải nghiệm thực tiễn rất rõ nét và trở thành lực lượng lao động mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi mô hình đào tạo nội bộ, nhất là khi doanh nghiệp bước vào quy trình sản xuất xanh hoặc số. Tại trường Cao đẳng Lý Thái Tổ cũng tổ chức nhiều lớp học ngắn hạn giúp người lao động nâng cấp kỹ năng và tránh bị đào thải trong môi trường việc làm biến đổi nhanh. Quan trọng nhất, Nhà trường muốn nhấn mạnh rằng giáo dục nghề nghiệp đang từng bước góp phần tạo ra cơ hội học tập suốt đời, bảo đảm mọi người dân dù ở đâu đều có thể tiếp cận và tham gia vào nền kinh tế số và xanh.
Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện đại, bao gồm kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, thầy Đông cho biết giáo dục nghề nghiệp cần định hướng đào tạo, đầu tư vào các ngành nghề mang tính liên ngành, tích hợp công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đồng thời vẫn đảm bảo thân thiện với môi trường.
Cụ thể, với kinh tế tri thức, chúng ta cần tập trung vào các ngành như công nghệ thông tin, khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa và công nghệ giáo dục. Đây là những lĩnh vực đòi hỏi tư duy phân tích, kỹ năng số cao và năng lực học tập suốt đời.
Đối với kinh tế số, các ngành như thương mại điện tử, marketing số trong doanh nghiệp hay phát triển phần mềm ứng dụng là rất cần thiết – vì đây là nền tảng cho mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong thời đại số.
Đối với kinh tế xanh, giáo dục nghề nghiệp cần ưu tiên đầu tư, đào tạo về năng lượng tái tạo, nông nghiệp thông minh, công nghệ môi trường và xây dựng xanh. Đây là các lĩnh vực đang được đầu tư mạnh và cần nguồn nhân lực có kỹ năng bền vững.
Còn đối với kinh tế tuần hoàn, tất yếu đòi hỏi chú trọng tới các ngành như thiết kế sản phẩm tuần hoàn, tái chế, kỹ thuật sửa chữa và logistics tuần hoàn. Những ngành này không chỉ góp phần bảo vệ môi trường mà còn tạo ra giá trị mới từ tài nguyên đã qua sử dụng.
Nhìn chung, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ luôn cần đi trước một bước trong đào tạo nhân lực cho những ngành mang tính chiến lược này, nhằm giúp lực lượng lao động sẵn sàng thích nghi và đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Cùng bàn về vấn đề trên, Thạc sỹ Nguyễn Khánh Cường – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế Lilama 2 bày tỏ, nguồn nhân lực bao gồm các trình độ từ sơ cấp, trung cấp đến đại học, tiến sỹ. Mỗi phân khúc thị trường lao động, đều có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Do đó, mọi ngành nghề của giáo dục nghề nghiệp đều phải được chú trọng đầu tư, đặc biệt là các ngành nghề kỹ thuật, điều khiển, tự động hoá, công nghiệp Robot, IoT; hay những ngành như Logistric, an ninh mạng… Bởi, đây đều là những ngành có vai trò quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh hiện nay. Cơ quan quản lý nhà nước cần có kế hoạch quy hoạch các ngành nghề để phát triển cho phù hợp.
Đồng thời, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng phải chuyển đổi, trang bị kỹ năng số, đào tạo nghề xanh cho sinh viên, để các em khi tham gia thị trường lao động có thể thích ứng linh hoạt và thay đổi phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi số và kinh tế xanh. Nhà nước phải đầu tư đồng bộ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp từ việc nâng cao đội ngũ giảng viên, định hướng đầu tư cơ sở vật chất, chương trình đào tạo…để đáp ứng tình hình và yêu cầu mới.
Chương trình đào tạo nghề cần tích hợp liên ngành, cập nhật xu hướng toàn cầu
Tuy nhiên, theo thầy Đông, hiện nay, việc đào tạo nhân lực nghề để đáp ứng yêu cầu của kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn đang gặp khá nhiều thách thức cả ở tầm hệ thống và ngay trong từng cơ sở đào tạo.
Trên thực tế, hệ thống giáo dục nghề nghiệp vẫn chưa được xác định rõ yêu cầu của các vị trí việc làm trong bối cảnh và yêu cầu mới của kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Trong khi đó, để đào tạo hiệu quả, chúng ta cần hiểu rõ về nội dung công việc, những công nghệ, thiết bị và các kỹ năng cần thiết cho các vị trí việc làm trong các lĩnh vực này.
Điều này đã khiến nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp gặp khó khăn và thách thức khi thiết kế chương trình đào tạo, chuẩn bị nguồn lực phù hợp (giảng viên, cơ sở vật chất…) và sự phối hợp của các bên liên quan dẫn đến nguy cơ học viên không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động trong các ngành công nghệ cao và bền vững.

Thứ nhất, chương trình và phương thức đào tạo vẫn còn nặng tính truyền thống, chưa theo kịp yêu cầu thực tế của doanh nghiệp. Điều này khiến sinh viên tốt nghiệp khó bắt nhịp được với thị trường lao động mới.
Thứ hai, năng lực của đội ngũ giảng viên cũng là một thách thức lớn. Nhiều thầy cô chưa được đào tạo bài bản về công nghệ mới và các phương pháp giảng dạy tích cực như: học tập theo dự án, học tập tại cơ sở sản xuất…, nên phương pháp dạy vẫn theo hướng truyền thụ một chiều, chưa theo kịp sự đổi mới trong công nghiệp và phương pháp huấn luyện của doanh nghiệp.
Thứ ba, cơ sở vật chất, trang thiết bị ở nhiều nơi đã lỗi thời, chưa đáp ứng được việc đào tạo trong môi trường công nghệ số hay mô phỏng quy trình xanh, làm hạn chế khả năng thực hành và trải nghiệm thực tế của học sinh.
Thứ tư, sự tham gia của doanh nghiệp vào đào tạo nghề còn khá mờ nhạt, chưa có cầu nối hiệu quả giữa đào tạo – ứng dụng – và việc làm, đặc biệt trong những ngành mới.
Thứ năm, nhận thức và động lực của người học cũng là vấn đề cần giải quyết. Nhiều bạn còn e ngại tiếp cận các ngành nghề mới vì thiếu thông tin, thiếu hình dung về nghề nghiệp trong tương lai, dẫn tới việc tuyển sinh những ngành như công nghệ số hay nghề xanh còn khó khăn.
Thứ sáu, còn thiếu các cơ chế khuyến khích đủ mạnh. Cả người học, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp đều cần có hỗ trợ để đầu tư vào những lĩnh vực mới, nhất là các hình thức đào tạo linh hoạt như mô-đun kỹ năng ngắn hạn hay công nhận năng lực theo chuẩn mới.
Để khắc phục được những khó khăn trên, thầy Đông cho rằng, Cục Giáo dục Nghề nghiệp và Giáo dục thường xuyên (Bộ Giáo dục và Đào tạo) với vai trò quản lý giáo dục nghề nghiệp, cần chủ trì việc nghiên cứu và xây dựng khung đào tạo phù hợp với kinh tế số, kinh tế xanh, và kinh tế tuần hoàn.
Đặc biệt, cần thành lập nhóm công tác liên ngành, kết hợp giữa chuyên gia học thuật và doanh nghiệp, để nghiên cứu yêu cầu của các vị trí việc làm và xây dựng giải pháp đào tạo linh hoạt, bao gồm: Chuyên gia giáo dục nghề nghiệp (Đề xuất phương pháp đào tạo thực hành sát với yêu cầu của các lĩnh vực này); Chuyên gia thị trường lao động (Phân tích xu hướng việc làm để định hướng nhu cầu nhân lực); Chuyên gia kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn (Cung cấp thông tin về công nghệ và kỹ năng cần thiết); Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh (Đóng góp kinh nghiệm thực tiễn, hỗ trợ thiết bị, và tham gia thiết kế chương trình để đảm bảo đào tạo đáp ứng thực tế).
Đây cũng là một dự án mà thầy Đông đang được tham gia để biên soạn và hướng dẫn cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cách xây dựng tích hợp các nội dung về công nghiệp xanh trong các module đào tạo của các lĩnh vực nghề khác nhau.
Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong khoa học cơ bản, công nghệ, chip bán dẫn và các ngành chiến lược, chương trình đào tạo nghề cần thực hiện những thay đổi mang tính hệ thống, tích hợp liên ngành và cập nhật xu hướng toàn cầu.
Trước hết, vấn đề quan trọng nhất là cần cập nhật chuẩn đầu ra theo hướng toàn diện hơn không chỉ ở kỹ năng thực hành, mà còn bao gồm tư duy phân tích, giải quyết vấn đề và kỹ năng số. Người học được trang bị cả kiến thức liên ngành, từ kỹ thuật cơ bản đến công nghệ tích hợp như AI, IoT hay số hóa, đáp ứng tốt yêu cầu từ các ngành công nghệ cao.
Bên cạnh đó, cần tích hợp mạnh mẽ các học phần liên quan đến công nghệ tiên tiến vào chương trình đào tạo nghề. Cụ thể như điện tử vi mô, chế tạo chip, AI, IoT, hay công nghệ xanh. Ngoài ra, việc thiết kế các mô-đun kỹ năng ngắn hạn cũng giúp người học tiếp cận công nghệ theo từng bước linh hoạt hơn.
Hơn nữa, nên thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa mô hình thiết kế chương trình đào tạo theo định hướng liên kết giữa trường - doanh nghiệp. Từ đó, người học được học tập, thực tập và thực hành tại cơ sở sản xuất theo vị trí việc làm, làm chủ công nghệ và tiếp cận các chuỗi cung ứng công nghệ cao ngay từ trong quá trình học.
Không những vậy, chương trình đào tạo giáo dục nghề nghiệp sẽ cần được đổi mới toàn diện phương pháp đào tạo – theo hướng tiếp cận năng lực. Người học được học qua dự án, mô phỏng tình huống thực tế và được đánh giá đa chiều, không chỉ về kiến thức mà cả tư duy sáng tạo, thái độ và kỹ năng làm việc nhóm.
Những thay đổi này sẽ giúp đào tạo nhân lực có kỹ năng chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu của các ngành công nghệ chiến lược.
Ngoài ra, để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong đào tạo nhân lực cho công nghiệp 4.0, Chính phủ và các cơ quan quản lý cần có chính sách mang tính đồng bộ và đột phá.
Theo đó, cần sớm ban hành khung trình độ kỹ năng nghề phù hợp với bối cảnh công nghệ mới, làm cơ sở xây dựng chương trình đào tạo sát thực tiễn. Giải pháp thực hiện việc này như tôi đã trình bày ở phía trên về sự cần thiết của nhóm công tác liên ngành, kết hợp giữa chuyên gia học thuật và doanh nghiệp, để nghiên cứu yêu cầu của các vị trí việc làm và kỹ năng nghề.
Đặc biệt, cần có cơ chế đầu tư chiều sâu cho cơ sở vật chất và công nghệ đào tạo, đặc biệt là phòng lab mô phỏng, thiết bị số hóa và nền tảng học tập thông minh.
Đồng thời, khuyến khích hợp tác công – tư để doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, chuyển giao công nghệ và tiếp nhận thực tập sinh. Đề cao vai trò của các doanh nghiệp chủ lực Việt Nam (như VinFast, Viettel, FPT) và doanh nghiệp FDI (như Samsung, Intel, Toyota) trong các lĩnh vực kinh tế số, kinh tế xanh, và kinh tế tuần hoàn. Những doanh nghiệp này không chỉ có tiềm lực tài chính, công nghệ mà còn có trách nhiệm và nghĩa vụ đồng hành với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và chuyên gia để xây dựng chương trình đào tạo và phát triển cơ sở thực hành.
Sự hợp tác nêu trên sẽ không chỉ đáp ứng nhu cầu nhân lực tức thời của doanh nghiệp mà còn chuẩn bị nguồn lực bền vững cho tương lai, giúp Việt Nam bắt kịp xu hướng kinh tế số, kinh tế xanh, và kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Cuối cùng, rất cần các chính sách hỗ trợ phát triển đội ngũ giảng viên cả về đào tạo lại, tập huấn công nghệ mới và trao đổi thực tế tại doanh nghiệp; mở rộng các chương trình học tập theo hướng micro-learning, và công nhận mô-đun kỹ năng ngắn hạn, giúp người học linh hoạt nâng cấp kỹ năng theo yêu cầu thị trường.
Còn theo thầy Cường, việc tăng cường hợp tác, liên danh, liên kết với các trường quốc tế mạnh trong các lĩnh vực này nên là ưu tiên hàng đầu. Cụ thể, cơ sở giáo dục nghề nghiệp chỉ cần điều chỉnh phù hợp với cơ sở vật chất hiện có, đồng thời kết hợp với doanh nghiệp có thế mạnh trong nước để triển khai đào tạo.
Ngoài những chính sách để đầu tư nguồn lực cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp, Nhà nước còn cần có những chính sách khuyến khích sự tham gia đầu tư của khối doanh nghiệp. Hiện nay, Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế Lilama2 đã và đang rất thành công trong việc kêu gọi tài trợ từ phía doanh nghiệp. Đơn cử, phía Siemens đã tài trợ Lilama2 phòng Kỹ thuật số trong cơ khí trị giá 1,8 triệu EURO; Phòng Cơ điện tử 4.0 từ Bosch Rexroth; Phòng Robot công nghiệp từ Robotfunktion trị giá 1 triệu EURO…