Chủ tịch Hội vô tuyến-điện tử Việt Nam điểm lại những "cột mốc" nổi bật về chuyển đổi số

10/10/2025 06:22
Hồng Mai

GDVN - Theo Tiến sĩ Trần Đức Lai, nếu toàn hệ thống cùng đồng tâm, nhất trí thì các mục tiêu của Nghị quyết 57 vào năm 2030 hoàn toàn có thể hiện thực hóa.

Theo Thông báo số 56/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ Kết luận Phiên họp tổng kết hoạt động Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06 năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2025 nêu: Thống nhất chủ đề chuyển đổi số năm 2025 là: “Chuyển đổi số toàn dân, toàn diện, toàn trình để tăng tốc, bứt phá phát triển kinh tế số”.

Nhân ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, trong bối cảnh cả nước đang triển khai mạnh mẽ Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Trần Đức Lai - nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), Chủ tịch Hội Vô tuyến - Điện tử Việt Nam (REV), về những kết quả, cơ hội và thách thức đặt ra cho tiến trình chuyển đổi số của đất nước.

Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Trần Đức Lai, nhân ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, xin ông chia sẻ những “cột mốc” nổi bật về chuyển đổi số của nước ta trong 5 năm gần đây?

Tiến sĩ Trần Đức Lai: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã ghi dấu nhiều cột mốc quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Đáng chú ý nhất là Quyết định số 505/QĐ-TTg ban hành ngày 22/4/2022, lấy ngày 10/10 hằng năm là ngày Chuyển đổi số quốc gia, tạo dấu mốc nhận thức quan trọng, thúc đẩy truyền thông và hành động đồng bộ về chuyển đổi số trên phạm vi toàn quốc.

Bên cạnh đó, Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cùng Quyết định 942/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 đã hình thành khung pháp lý và chiến lược tổng thể cho quá trình chuyển đổi số. Các văn bản này xác định rõ mục tiêu, lộ trình triển khai ở các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, đồng thời định hướng phát triển thể chế số, hạ tầng số, dữ liệu số và con người số.

bai-dang-6.png
Ảnh: NVCC. Thiết kế: Hồng Mai

Một số dấu mốc quan trọng khác có thể kể đến như, năm 2021, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (national population database) ra mắt, kết nối dữ liệu giữa 18 bộ, ngành (cũ) và 63 địa phương (cũ), đồng thời phát hành hơn 20 triệu căn cước công dân điện tử. Đây là bước tiến then chốt trong việc xây dựng hệ thống dữ liệu dân số số hóa, phục vụ xác thực thông tin, cung cấp dịch vụ công, hỗ trợ y tế và dân sinh, tăng cường khả năng đồng bộ dữ liệu giữa các bộ, ngành và địa phương.

Cùng với đó, chủ đề chuyển đổi số quốc gia 2024 tập trung vào bốn trụ cột: công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số và dữ liệu số - khẳng định định hướng phát triển chuyển đổi số gắn liền với tăng trưởng kinh tế bền vững.

Bên cạnh đó, hạ tầng số và kết nối xã hội đã có bước phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện cho việc mở rộng các ứng dụng thương mại điện tử, giáo dục trực tuyến, y tế từ xa... Năm 2024, tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang đạt 82,4%, cho thấy mức độ phủ sóng và tiếp cận Internet ngày càng rộng rãi.

Với nền tảng hạ tầng này, cùng những chính sách và chương trình được triển khai đồng bộ, nhiều ngành như y tế, giáo dục, công nghiệp triển khai nhiều đề án chuyển đổi số đạt hiệu quả rõ rệt, góp phần thúc đẩy năng suất, chất lượng và dịch vụ công.

Đặc biệt, Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã nâng tầm vai trò của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số thành trụ cột chiến lược quốc gia.

Phóng viên: Sự ra đời của Nghị quyết số 57-NQ/TW đánh dấu bước chuyển mình mạnh mẽ trong chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của Việt Nam. Ông đánh giá thế nào về ý nghĩa và tác động của Nghị quyết này đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, đặc biệt là về chuyển đổi số?

Tiến sĩ Trần Đức Lai: Tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW xác định rõ, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược quốc gia. Nghị quyết cũng xác định các mục tiêu rất cụ thể đến năm 2030 như quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp…

Với tinh thần đó, theo tôi, Nghị quyết 57-NQ/TW có ý nghĩa rất rõ ràng và sâu sắc.

Thứ nhất, Nghị quyết tạo ra khung chính trị và pháp lý cụ thể, thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong việc coi khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột phát triển. Điều này giúp thống nhất nhận thức và hành động từ trung ương đến địa phương.

Thứ hai, các mục tiêu được lượng hóa rõ ràng như tỷ lệ GDP số, mức độ sử dụng dịch vụ công trực tuyến, tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hay chi cho R&D… qua đó xác định rõ trách nhiệm và tạo áp lực về tiến độ thực hiện. Đây là những chỉ tiêu mang tính đột phá so với trước đây.

Thứ ba, Nghị quyết nhấn mạnh yếu tố con người, doanh nghiệp và thể chế, cho thấy sự đổi mới trong tư duy phát triển - nền tảng quan trọng để chuyển đổi số mang lại hiệu quả thực chất.

Thứ tư, Nghị quyết yêu cầu sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, bảo đảm sự liên thông, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhằm tạo sức mạnh tổng hợp.

Rõ ràng, Nghị quyết đã bước đầu phát huy hiệu quả, thể hiện qua nhiều chuyển biến cụ thể. Một số nền tảng số và khung pháp lý mới được thúc đẩy nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi số, như Luật sửa đổi Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp Công nghệ số và các nghị định kèm theo.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp và địa phương đã bắt đầu tiếp cận các chính sách hỗ trợ, qua đó tăng niềm tin vào sự đồng hành của Nhà nước trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ vào thực tiễn phát triển.

bai-dang-7.png
Ảnh minh họa: website Hội Vô tuyến - Điện tử Việt Nam

Phóng viên: Nghị quyết 57-NQ/TW đặt mục tiêu đến 2030 phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu. Để đạt được mục tiêu này, nước ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức nào, thưa ông?

Tiến sĩ Trần Đức Lai: Nghị quyết 57-NQ/TW, cùng với các nghị quyết mà Trung ương ban hành trong thời gian gần đây đã mở ra cơ hội to lớn cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Trước hết, tạo điều kiện để kinh tế số tăng tốc, nâng cao năng suất quốc gia. Tiếp đó, hướng tới xây dựng Chính phủ số - một nền hành chính minh bạch, hiệu quả; hình thành xã hội số với công dân số năng động; và phát triển công nghiệp văn hoá số như một sức mạnh mềm của Việt Nam.

Cùng với đó, cơ hội hội nhập quốc tế ngày càng rõ ràng hơn, khi đất nước có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị số toàn cầu, thu hút đầu tư FDI công nghệ cao trong các lĩnh vực như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu, an ninh mạng, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia thông qua đổi mới sáng tạo.

Bên cạnh cơ hội, công cuộc chuyển đổi số của Việt Nam cũng đang đối mặt với không ít thách thức.

Trước hết là hạ tầng và năng lực số. Mặc dù hệ thống thông tin truyền thông đã phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua, song vẫn tồn tại sự chênh lệch đáng kể giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng miền.

Ở nhiều khu vực, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, hạ tầng mạng tốc độ cao còn hạn chế, các trung tâm dữ liệu đạt chuẩn quốc tế vẫn còn khiêm tốn. Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) còn yếu về năng lực quản trị số, chi phí đầu tư công nghệ vẫn cao.

Một thách thức lớn khác là thiếu hụt nhân lực số chất lượng cao. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, Việt Nam hiện có 74.000 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin với hơn 1,2 triệu lao động. Để theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế, dự kiến đến năm 2030, Việt Nam cần có 3 triệu nhân sự làm việc trong lĩnh vực này.

Và vấn đề an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu cũng đặt ra nhiều lo ngại. Chúng ta đang phải đối mặt với nguy cơ rò rỉ dữ liệu cá nhân, tấn công mạng, thao túng thông tin, trong khi khung pháp lý về chủ quyền số và đạo đức AI vẫn chưa hoàn thiện.

Ngoài ra, đạo đức số cũng là một vấn đề cần được chú trọng. Trong xã hội số, những hiện tượng như tin giả, lừa đảo trực tuyến, bạo lực mạng, xâm phạm quyền riêng tư ngày càng phổ biến. Do đó, việc giáo dục kỹ năng số, nâng cao năng lực nhận biết và ứng xử văn minh trên không gian mạng cần được coi là nhiệm vụ cấp thiết và triển khai sớm, để xây dựng một xã hội số an toàn, lành mạnh và bền vững.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về tác động của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ ngày 01/10/2025) trong việc đồng hành, bổ trợ Nghị quyết 57-NQ/TW để tạo ra những bứt phá mới cho chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo quốc gia?

Tiến sĩ Trần Đức Lai: Sự ra đời của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo có thể coi là một trong những trụ cột quan trọng, là khung pháp lý để thực hiện thành công Nghị quyết 57-NQ/TW nhằm đưa Việt Nam tiến nhanh hơn trong chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học.

Có thể thấy, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo lần này mang nhiều điểm mới nổi bật. Trước hết, đổi mới sáng tạo lần đầu tiên được đặt ngang hàng với khoa học và công nghệ, thể hiện tư duy phát triển mới - coi đổi mới sáng tạo là hoạt động thường xuyên cần lan tỏa trong toàn xã hội.

Tiếp đó, Luật đã chuyển từ quản lý tập trung ở đầu vào sang quản lý theo hiệu quả đầu ra, một quan điểm mang tính đột phá trong tư duy quản lý, hướng tới kết quả thực chất.

Cùng với đó, Luật cho phép áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) - mô hình mà nhiều quốc gia đã triển khai trong hoạt động khoa học và đổi mới sáng tạo. Cơ chế này mở đường cho việc mua, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện đặc biệt để đẩy nhanh ứng dụng các công nghệ mới, góp phần thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển năng động và hiệu quả hơn.

Như vậy, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo mở ra những cơ hội lớn cho việc thực thi Nghị quyết 57-NQ/TW, khi tạo dựng môi trường pháp lý rõ ràng, ổn định và thuận lợi hơn cho phát triển. Luật góp phần khuyến khích doanh nghiệp tham gia mạnh mẽ vào thị trường khoa học - công nghệ, đổi mới phương thức quản lý, tăng tính linh hoạt, sáng tạo trong thể chế, đồng thời huy động hiệu quả hơn các nguồn lực từ xã hội.

Phóng viên: Với những chính sách mang tính đột phá về khoa học công nghệ và chuyển đổi số được triển khai, ông kỳ vọng đến năm 2030, Việt Nam có thể đạt được những thành tựu nổi bật nào để khẳng định vị thế của mình trên bản đồ phát triển khu vực và thế giới?

Tiến sĩ Trần Đức Lai: Tôi tin tưởng rằng, nếu toàn hệ thống từ các cấp, ngành, đội ngũ nhà khoa học, doanh nghiệp đến các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu… cùng đồng tâm, nhất trí, biết nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, thì tinh thần và các mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW cùng các chiến lược chuyển đổi số quốc gia hoàn toàn có thể hiện thực hóa vào năm 2030.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!

Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến năm 2030 như sau:

Tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ quốc tế. Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến.

Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 55%; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp.

Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.

Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Hệ thống tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được sắp xếp lại bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo.

Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%.

Hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động 5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc.

Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh đối với các thành phố trực thuộc Trung ương và một số tỉnh, thành phố có đủ điều kiện. Thu hút thêm ít nhất 3 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.

Quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu.

Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.

Hồng Mai